Ba cõi không an như nhà lửa. Đâu miền chân lạc khỏi tang thương. Người vô thường, cảnh vô thường. Khuyên gọi cùng nhau tỉnh mộng. Quay về biển giác thanh lương.
Kỷ Yếu
Thượng Tọa THÍCH MINH PHÁT
(1956 – 1996)
---o0o---
“Quảy dép về Tây chốn nghĩ ngơi,
Hạc vàng cất cánh ngắm phương trời,
Huyễn thân trả lại nơi trần thế,
Giả biệt hôm nay có mấy lời…”
Cuộc đời tu tập và hành đạo của Thầy Minh Phát là bức tranh minh họa hiện thực sinh động lời dạy của Ðức Phật: “Này chư Tỳ kheo! Hãy du hành vì an lạc, vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chư Thiên và loài người”.
Những bài văn, thơ, kệ… tưởng niệm của chư vị Tôn đức, chư vị pháp huynh, pháp hữu, môn đồ… được ghi lại trong tập “Kỷ Yếu” này cho chúng ta thấy rõ hình ảnh đẹp của một Sa di Minh Phát thời niên thiếu; đặc biệt là nổi bậc hơn là công hạnh đạo đức ấy đã tăng trưởng vượt bực trong suốt hai mươi mốt năm hiện thân là một vị Tỳ kheo trong giáo pháp.
Dù tại Thành phố Hồ Chí Minh hay các tỉnh miền Tây, miền Ðông, miền Trung, kể cả một số tỉnh miền Bắc xa xôi… nơi nào có nhơn duyên xây dựng chùa chiền, trùng tu Tam Bảo, tổ chức an cư kiết hạ, khai đàn truyền giới hay thiên tai địa ách, hỏa hoạn, lũ lụt, bão lụt v.v… là nơi đó Thầy Minh Phát luôn luôn có mặt và hoan hỷ trong mọi trường hợp.
Những sự kiện nổi bật nơi Thầy Minh Phát và chư Tôn đức Tăng, Ni, Phật tử quen biết xa gần đều rất khó quên: Nơi các Ðại giới đàn, Thầy là vị dẫn lễ thân kính của các giới tử; nơi các đàn chuẩn tế trong những lễ ngày hội lớn, Thầy là vị sám chủ uy nghiêm và gây ấn tượng mạnh trong lòng đại chúng; nơi các bệnh nhân, Thầy là vị lượng y kỳ diệu, với một chai nước mát Thầy đọc vài câu kinh ngắn chú nguyện, người bệnh mang về uống là có thể hết bệnh (đã có nhiều người bệnh nhờ uống những chai nước mát của Thầy cho); nơi các Tổ đình lớn, trong một số ngày lễ hội, khi cần - Thầy là người “đầu bếp tài ba” v.v…
Ngoài ra Thầy còn có một đặc tính gần như thiên phú, hay nói theo nhà Phật thì do thầy tu tập, tích tụ trong nhiều kiếp, đó là khả năng nghe và trùng tuyên Pháp ngữ - nơi nào có đại lễ, chư Tôn đức xướng Pháp ngữ… Thầy được nghe qua một lần là ngay sau đó, Thầy có thể lặp lại không thiếu sót. Ðồng thời, dù về mặc văn hóa phổ thông Thầy học không nhiều, nhưng Thầy có khả năng biên soạn một kinh sách về Nghi lễ, luật giới, tiểu truyện v.v… Ðặc sắc nhất là Thầy có thể xuất khẩu thành thơ trong mọi trường hợp, đem lại sự an vui bá tánh trên đường hoằng hóa.
Hành trạng Thầy Minh Phát đã cho chúng ta cảm nhận giá trị tinh hoa kỳ diệu của dòng thời gian như lời dạy của Ðức Phật trong kinh Pháp Cú (câu 115):
Ai sống một trăm năm
Không thấy pháp tối thượng
Không bằng sống một ngày
Thấy được pháp tối thượng.
Về thọ mạng huyễn thân, Thầy Minh Phát hiện hữu với chúng ta không lâu - bốn mươi mốt năm - nhưng mỗi thời khắc đi qua là một hạt chuỗi ngọc long lanh của công đức và trí tuệ được tích tụ. Cho nên dù thời gian kiếp sống có ngắn ngủi vô thường nhưng Thầy đã tận dụng không bỏ phí “một điều thiện nhỏ” và như chúng ta đã chứng kiến, với công hạnh “ban vui cứu khổ”, tâm nguyện của Thầy đã làm cho dòng thời gian như ngừng lại, thường trụ và hình ảnh Thầy Minh Phát hiền hòa, từ ái luôn gần gũi như sống mãi, hằng hữu trong lòng người con Phật xuất gia và tại gia chúng ta.
Như vậy, nếu chúng ta sống một trăm năm, mà chúng ta chỉ biết sống ích kỷ cho riêng mình hoặc bỏ phí thời gian trôi qua trong những việc dễ duôi, vô ích thì dòng thời gian nhiều đó trở thành không nghĩa và tiêu tan như mây khói. Ngược lại, chúng ta sống dù một ngày, một tháng, một năm, mười năm, hay đôi ba mươi năm v.v… mà chúng ta sống không chấp thủ, không ích kỷ cho riêng mình, mỗi giờ phút trôi qua, chúng ta biết tận dụng làm thiện sự, đem lợi lạc cho nhân sinh thì nhất định dòng thời gian đó, dù ngắn cũng trở nên dài, đẹp, bất tử trong lòng mọi người và tự thể nó trở nên thiên thu.
Cuộc đời Thầy Minh Phát là tấm gương sáng về tinh thần “Vô ngã vị tha, lợi lạc quần sanh”. Trong vòng sanh diệt tương đối, cuộc đời Thầy có phần ngắn ngủi nhưng công đức tràn đầy vô lượng, xứng đáng với tấm lòng mọi người đã tôn vinh, tưởng niệm, thương kính, đưa tiễn… trong ngày tang lễ; xứng đáng được Giáo Hội Trung Ương và Thành Hội Phật Giáo truy phong – cung an Thầy vào hàng Giáo phẩm Phật giáo Việt Nam, tại buổi lễ tưởng niệm ngày 10-5-1996 Giáo hội và Thành hội Phật giáo đã công bố quyết định tấn phong Ðại Ðức Thích Minh Phát lên hàng Giáo phẩm Thượng Tọa. Tiễn đưa Giác linh Thầy hội nhập cõi vĩnh hằng “Thượng phẩm thượng sanh” của chư Bồ tát.
Tập “Kỷ Yếu” này được thực hiện bằng tất cả những tấm lòng của chư vị tông phong pháp lữ, huynh đệ pháp hữu và môn đồ tứ chúng, Phật tử gần xa bày tỏ đạo tình trân quý một cuộc đời đã hiến dâng trọn vẹn cho đạo pháp dân tộc và chúng sanh.
Nhân dịp cúng lễ Tuần chung thất, Ban biên tập “Kỷ Yếu” đề nghị tôi viết Lời Tựa cho tập sách, thể hiện tình “Linh Sơn cốt nhục” tôi có đôi lời tưởng niệm… trân trọng kính mời chư vị Tôn Ðức Tăng Ni, huynh đệ pháp hữu và Phật tử hãy cùng đọc và tưởng nhớ hình ảnh Thầy Thích Minh Phát thân thương.
Mùa An Cư Phật lịch 2540
Phó Ban kiêm Ủy Viên Văn Hóa
Thành Hội Phật Giáo
Thượng Tọa Thích Giác Toàn
Trích lục những vần lưu bút
Chùa Ðông Hưng
Thủ Thiêm – Saigon
Xem quyển kỷ niệm nầy có cảm tưởng:
- Trước dẫn lời thế tục: “Khen ai kiếp trước có tu, kiếp nầy xe kiệu võng dù nghinh ngang.”
Áp dùng ở đây:
- Tỳ kheo Thích Minh Phát kiếp trước có tu, nên kiếp nầy gặp Phật Pháp, gặp Minh sư và Thiện-Hữu Tri-Thức.
- Ðể lời rất mừng, rất khen và rất khuyến khích cố gắng tu hành đi tới đạo quả Bồ đề để hoằng pháp lợi sanh, báo Phật Ân đức.
- Cảnh sách Quy Sơn Tổ nói: “Ðời trước có căn lành, nay mới cảm đặng báo tốt lạ như vậy./.
Hành Trụ đề
(Lúc uống trà khuya 12 giờ trong thất (ngày 11/7/Mậu ngọ (14/8/1978.)
Nam Mô A Di Ðà Phật
Ta chẳng phiền ai nếu họ phiền,
Vì ta có mặt mới là duyên,
Nếu không ta, có ai phiền trách,
Gió thổi hư không giữa đất liền.
Ta chẳng não loạn với một ai,
Có thêm thân, có nghiệp theo hoài,
Khen chê thương ghét đầy vơi mãi,
Xả hết cho đời khỏi trả vay.
Ngày xưa pháp hội có hai người,
Tranh cãi buồn phiền chuyện hổ ngươi,
Một vị phương trời lo phướn động,
Một người cãi lại gió bay thôi.
Huệ Năng nhìn thấy trong câu chuyện,
Biết được ra khuyên một ít lời,
Phướn không gió cớ chi lay động,
Chỉ có tâm mình chịu nổi trôi.
Bà kia ông nọ người xa lạ,
Mà giận làm chi giữa cuộc đời,
Chẳng có vinh thì đâu có nhục,
Ðể lòng sầu não giữa đầy vơi.
Mái chùa từ buổi vui tình Phật,
Cắt tóc chia tay chẳng nợ đời,
Cơm Phật rau dưa qua ngày tháng,
Buồn chi lời nói của người đời.
Xả hết cho lòng không vướng bận,
Quên đi cho sạch chẳng chiều mơi,
Ai thương ai ghét đều là bạn,
Lời lẽ khen chê cũng thế thôi.
Giữ vẹn từ bi thêm hỷ xả,
Vào ra ba cõi mặc vui chơi.
1992
Thích Minh Phát
Nam Mô A Di Ðà Phật.
Chày kình tiếng nhẹ buông
Lòng con mãi lo buồn
Mong sao tròn nhân Phật
Ðể ngày tháng qua xuông
Hoàng hôn chiều mưa rơi
Mồ hoang khắp trong đời
Mờ sương lòng không nơi
Hết thời.
Nghĩ ngợi
Bao nhiêu duyên nghiệp người ơi!
Bao nhiêu oan trái trong đời viễn ly.
Xin tròn quả phước hôm ni.
Ngày nay cho đến một khi đạo thành.
Thích Minh Phát
Nam Mô A Di Ðà Phật.
Xin hoan hỷ giữa chợ đời đen trắng
Chốn phiền ba bao mưa nắng dập dồn
Từ có thân này thành chuyện sớm hôm
Rồi ngày tháng buộc ràng thêm thắt chặt
Giữa thế hệ muôn chuyện ai cũng mặc
Miễn tâm tư hằng mãi nụ cười vui
Cho lòng luôn hòa thuận giữa ngọt bùi
Ðể tạo dựng vuông tròn trong lẽ sống
Muốn tất cả mọi người luôn tự trọng
Muốn thân thương giữa bao cảnh khóc cười
Muốn dung hòa cho sự được mười mươi
Muốn tùy hỷ giữa đất trời tang lệ
Ðời đã có rồi không thôi thì kệ
Kiếp nhân sinh bao thế hệ qua rồi
Nghiệp đa mang đeo đuổi kiếp con người
Thân tứ đại cũng tùy dòng luân tục.
Niệm Di Ðà điều phục lại thân tâm
Thoát trần ai trong sáng tợ trăng rằm
Hầu trở lại tròn đầy ba la mật.
Thích Minh Phát
Nam Mô A Di Ðà Phật.
Sự lý đua nhau giữa chợ đời
Ai người thong thả mặc vui chơi
Gặp nhau hoan hỷ lòng thông cảm
Cho vẹn lòng thương ở với đời.
Cho vẹn lòng thương ở với đời.
Biển trần lặn hụp mãi đua bơi
Nếu không cảnh tỉnh quay đầu lại
Muôn kiếp ngàn năm trả nợ đời.
Muôn kiếp ngàn năm trả nợ đời.
Nơi miền khổ thú mặc vui chơi
Quê xưa cảnh cũ chừng quay lại
Thôi đến liên bang cũng kịp thời
Thôi đến liên bang cũng kịp thời
Nơi miền Phật độ được thảnh thơi
Sanh già đau chết không còn nữa
Niệm Phật nhìn trăng chẳng nợ đời.
Thích Minh Phát
Ðời sống tăng nhàn vui nước non
Yên hà bạn lữ nguyện vuông tròn
Liễu xanh tùng biếc xuân thu mặc
An lạc hạnh tu chẳng mất còn.
Thích Minh Phát
Tiểu Sử
Cố Thượng Tọa Thích Minh Phát
(1956 – 1996)
- Ủy Viên Từ Thiện Xã Hội TW. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
- Ủy Viên Từ Thiện Xã Hội Thành Hội Phật Giáo TP. HCM.
- Ủy Viên Từ Thiện Xã Hội Ban Ðại Diện Phật Giáo Q. 10
- Phó Giám Ðốc Ðại Tòng Lâm Phật Giáo - Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Trụ Trì Chùa Viên Chùa Viên Giác – Q. Tân Bình.
- Trụ Trì Chùa Phụng Sơn – Q.11
I) Thân Thế:
Thượng Tọa thế danh Lê Nhựt Nguyên, pháp danh Nguyên Ðức, pháp hiệu Minh Phát. Sinh ngày 20 tháng 06 năm 1956 (Bính Thân) tại Chợ Lớn (nay là Quận 10, TP. Hồ Chí Minh). Phụ thân là ông Lê Thành An, mẫu thân là bà Trương Thị Ba, song thân đều đã từ trần. Thượng Tọa được bảy anh chị em, Thượng Tọa là người thứ tư trong gia đình.
II) Thời Gian Xuất Gia Học Ðạo:
Ðược sinh ra trong một gia đình nhân hậu, đời đời kính tin Tam Bảo và sẳn túc duyên nên vừa biết đòi ăn là Thượng Tọa đã ăn chay; lại gia đình may được ở gần chùa nên Thượng Tọa thường theo mẹ sang chùa lạy Phật. Nhờ đó mà hạt giống Bồ Ðề ngày càng phát triển.
Năm 1964, Thượng Tọa được song thân cho xuất gia học đạo với cố Hòa Thượng Thích Thiện Hòa, viện chủ Tổ Ðình Ấn Quang – Giám Ðốc Phật Học Ðường Nam Việt. Kể từ đó, hôm sớm kệ kinh siêng năng hành đạo, Thượng Tọa cùng với sư huynh Minh Thành giữ chức thị giả hầu cận Hòa Thượng Bổn Sư; Nhờ gần gũi chư vị Cao Tăng Tôn đức nên chủng trí vô sư nhiều đời huân tập nhân đây là tăng trưởng.
Năm 1971, Thượng Tọa thọ giới Sa Di với cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ tại giới đàn Tu viện Quảng Ðức (Thủ Ðức).
Năm 1975, Với hạnh nguyện sâu dầy, oai nghi đĩnh đạc, đáng làm pháp khí Ðại thừa, Thượng Tọa được Hòa Thượng Bổn Sư cho thọ giới Tỳ kheo và Bồ Tát tại giới đàn chùa Pháp Giới (Cầu Tre – Tân Bình) do cố Hòa Thượng Thích Hành Trụ làm Ðường Ðầu Hòa Thượng.
III) Thời Kỳ Hóa Ðạo:
Năm 1974, khi Hội Ðồng Quản Trị Tổ Ðình Ấn Quang và các cơ sở trực thuộc được thành lập, Thượng Tọa được cử làm chức Phó Tổng Quản Sự, kiêm chức Tri khố Tổ Ðình Ấn Quang, chăm lo công việc ăn ở cho đại chúng một cách chu toàn cho đến ngày viên tịch.
Năm 1976, vâng lệnh Hòa Thượng Bổn Sư và theo sự tha thiết thỉnh cầu của Phật tử chùa Viên Giác, Thượng Tọa kiêm nhậm chức Trụ Trì chùa Viên Giác - Quận Tân Bình; và nơi đây cũng chính là nơi thế độ chúng đệ tử Ưu Bà Tắc xuất gia.
Năm 1978, sau khi Hòa Thượng Bổn Sư viên tịch, Thượng Tọa được cử làm chức Phó Giám Ðốc Ðại Tòng Lâm Phật Giáo ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Cũng năm này, Thượng Tọa xây dựng chùa Viên Dung ở xã Linh Ðông, huyện Thủ Ðức trên phần đất do Phật tử Diệu Hạnh dâng cúng, là nơi tiếp nhận chúng đệ tử Ưu Bà Di xuất gia.
Năm 1992, theo lời thỉnh cầu của Hòa Thượng Phước Quang - Trụ trì chùa Phụng Sơn, Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh đã bổ nhiệm Thượng Tọa về trụ trì chùa Phụng Sơn.
Năm 1993, Sau khi Ðại Hội Phật Giáo toàn quốc kỳ III, Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh lần thứ IV, Thượng Tọa được mời làm Ủy Viên Ban Từ Thiện Xã Hội Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, Ủy Viên Tiểu Ban Từ Thiện Xã Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh và Ủy Viên Ban Từ Thiện Xã Hội Phật Giáo Quận 10.
Sau ngày 19 tháng 09 năm Quý Dậu, Hòa Thượng Tổng Quản Sự Tổ Ðình Ấn Quang viên tịch, Thượng Tọa là một trong bốn Thượng Tọa lãnh đạo của Tổ Ðình Ấn Quang, và ThượngTọa đã đảm nhận chức Phó Ban Quản Trị kiêm Tri Sự điều hành mọi sinh hoạt của Tổ Ðình cho đến ngày viên tịch.
Bằng giới đức trang nghiêm thanh tịnh, mô phạm chốn tòng lâm biểu tượng nơi quy hướng cho Tăng Ni và Phật tử, trong những thập niên 1975-1995, Thượng Tọa đã từng đảm nhận các chức vụ Phó Ban Kiến Ðàn, Dẫn Thỉnh Sư trong các Ðại giới đàn để truyền trao giới pháp cho Tăng Ni, Phật tử. Qua đó từng hàng giới tử đạo thể trang nghiêm, giới đức thanh tịnh trở thành người hữu ích cho đạo pháp và cho xã hội.
Trong sự nghiệp kế thừa đạo mạch, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức, Thượng Tọa đã thế độ cho hơn một trăm Tăng Ni xuất gia tu học và hàng ngàn Phật tử quy y Tam Bảo, thực hiện hạnh nguyện lợi tha, tu tâm hành thiện, đẹp đạo tốt đời. Ngoài trọng trách vận động tài chánh ẩm thực cho Trường Cơ Bản Phật Học Ðại Tòng Lâm, Ni viện Thiện Hòa, Thượng Tọa còn nổ lực yểm trợ cho các trường Cơ Bản Phật Học các tỉnh, thành tại một số địa phương, góp phần đào tạo Tăng Ni tài đức cho Giáo Hội và Tỉnh Hội, Thành Hội Phật Giáo trong cả nước.
Bằng công đức trang nghiêm ngôi Tam Bảo là trang nghiêm Tịnh độ của chư Phật, Thượng Tọa đã kế thừa sự nghiệp của cố Hòa Thượng Bổn Sư, đã nổ lực vận động tài chánh trùng tu ngôi Tổ Ðình Ấn Quang, chùa Long Triều, kiến thiết Ðại Tòng Lâm Phật Giáo, chùa Huệ Nghiêm, chùa Dược Sư, Chùa Viên Giác, chùa Phụng Sơn và chùa Khánh Ðức (sông Bé), làm trang nghiêm đạo tràng xứng đáng là cơ sở sinh hoạt tín ngưỡng của Giáo Hội tại địa phương. Ngoài ra Thượng Tọa còn ủng hộ công tác trùng tu, xây dựng một số lớn cơ sở tự viện tại các tỉnh, thành trên địa bàn cả nước.
Nêu cao tinh thần vô ngã vị tha, từ bi cứu khổ của đạo Phật, Thượng Tọa đã thể hiện tinh thần ưu đời mẫn thế, hạnh nguyện từ bi vô hạn, qua các mặt công tác từ thiện xã hội trên khắp mọi miền đất nước; nơi nào có thiên tai, lũ lụt, hỏa hoạn; bịnh tật, đói khát là nơi đó có hình ảnh và tài vật cứu trợ của Thượng Tọa. Có thể nói Ngài là biểu hiện của tình thương, là sự sống của người đau khổ, trong ý nghĩ hạnh nguyện của một vị Bồ Tát hiện thân.
Qua phúc đức trang nghiêm, túc duyên thù thắng, hạnh nguyện kỳ diệu, năng lực phi thường, có thể nói Thượng Tọa là Y Chỉ Sư cho toàn thể Ni giới. Nhất là đối với những hàng Tăng Ni, Phật tử có đủ thiện duyên khi được diện kiến, qua lời từ nhã, cử chỉ dịu dàng, tỏa sáng gương lành, tâm hồn thuần hậu của Thượng Tọa, tất cả đều được an lạc thỏa mãn mong cầu và phước lành thêm lớn, trong ý nghĩ diệu lực thù thắng bất khả tư nghì của đạo Phật.
Ngoài ra, Thượng Tọa còn dành nhiều thời gian biên soạn những tác phẩm để lưu lại cho hậu thế, gồm có:
- Ðời sống Ðức Ðiều Ngự.
- Xuân Vô Năng Thắng.
- Giai thoại nhà Thiền.
- Các nghi thức tụng niệm và chúc tán.
- Khoa cúng Tổ Kiều Ðàm Di Mẫu.
- Tu chỉnh Giới Ðàn Ni.
- Các tập thi phú v.v…
Với tinh thần hoằng dương chánh pháp lợi lạc quần sanh, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức, hơn nửa cuộc đời phụng sự đạo pháp và chúng sanh - tốt Ðạo đẹp Ðời, Thượng Tọa đã được Giáo Hội, Thành Hội Phật Giáo, Ủy Ban Nhân Dân, Mặt Trận Tổ Quốc Thành Phố và Quận 10 tặng bằng Tuyên Dương Công Ðức, các bằng khen và giấy khen đủ loại.
IV) Thời Kỳ Viên Tịch:
Kể từ năm 1994, Thượng Tọa đã trải qua cơn bệnh ngặt nghèo, sức khỏe có phần giảm sút. Nhưng Thượng Tọa vẫn nỗ lực kiên trì thi hành Phật sự, lợi lạc quần sanh, quyết tâm đi cho trọn con đường phụng sự đạo pháp và nhân sinh. Nhưng lực bất tòng tâm, như Cổ đức dạy:
Bầu thuốc thánh đâu cứu được người hết số,
Chén linh đơn sao chữa được bệnh nan y.
Thế rồi ngày qua tháng lại, sức khỏe Thượng Tọa kém dần theo cơn bệnh, nhưng Thượng Tọa vẫn tỉnh giác chánh niệm an nhiên tự tại, sinh hoạt bình thường trong ý niệm sinh tử nhàn nhi dĩ. Và sau một cơn bệnh nhẹ, Thượng Tọa đã xả báo an tường, thu thần thị tịch, trở về thế giới Niết bàn bất sinh bất diệt vào lúc 6 giờ 40 phút ngày 21 tháng 03 năm Bính Tý (nhằm ngày 08-05-1996), trụ thế 41 năm, Hạ lạp trải qua 21 mùa An Cư Kiết Hạ.
Thế là Thượng Tọa đã ra đi vĩnh viễn, bỏ lại các pháp hữu vi giả tạm, hạnh nguyện chưa tròn, đường phụng sự đạo pháp và chúng sanh còn nhiều người mong đợi, chờ ơn; nhưng cõi Ta bà đã khuất bóng vì sao, miền Cực Lạc thêm trang Thượng Sĩ. Tuy nhiên công đức của Thượng Tọa đã cống hiến cho đạo pháp và chúng sanh sẽ còn sống mãi trong tâm tư những người con Phật và vạn loại hàm linh, trong ý nghĩa pháp giới vô biên, viên dung vô ngại qua những kiếp lai sinh trần thế cho đến khi chứng quả Bồ đề.
Phụng vì Ấn Quang Ðường Thượng, Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Tứ Thế, húy Nguyên Ðức, hiệu Minh Phát Thượng Tọa Giác linh Thiền tọa.
LỜI TƯỞNG NIỆM
GIÁC LINH THƯỢNG TỌA THÍCH MINH PHÁT
của BAN QUẢN TRỊ TỔ ÐÌNH ẤN QUANG và CHỨ PHÁP HỮU
NAM MÔ TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
KÍNH GIÁC LINH THƯỢNG TỌA MINH PHÁT
Trong giờ phút nghìn thu vĩnh biệt này, trước khi tiễn đưa kim quan Thượng Tọa đến nơi trà tỳ. Chúng tôi xin thay mặt Ban Quản Trị Tổ Ðình Ấn Quang và Quý pháp hữu có đôi lời tưởng niệm một người đồng hành, đồng sự, một người bạn muôn đời trong chánh pháp.
Kính Giác Linh Thầy Minh Phát
Biển nghiệp thức giờ đây đã lặng sóng
Trời trăng sao đã in đậm nét vô thường giữa dòng bất diệt
Bên này bờ sinh diệt, lời nào đây nói lên cho cùng
Trong thế giới Niết bàn, lời nào đây nói lên cho tận!
Nhớ Giác linh xưa, từ chân tánh hiện thân Ðại sĩ, đức tính hiền hòa, sớm gieo duyên cùng đạo cả. Quyết chí xuất trần từ thuở nhỏ, chốn Ấn Quang tỏ chí đạo mầu. Ðường giải thoát lâng lâng nhẹ bước. Vượt trần gian siêu thoát thường tình. Quả thật bỏ ngoài ngàn dặm lòng tham dục, để lẽ huyền vi mãi ở trong.
Rồi đã đến độ tâm hoa khai phát, suối nghĩa dạt dào. Thiên tư đỉnh ngộ, mật khế chân như, tiềm phù Tổ ấn, nối dõi môn phong, làm sáng danh con nhà họ Thích ngàn đời.
Mỗi bước chân đi là bao niềm an lạc, mỗi lời giảng pháp là sự giải thoát tràn đầy. Cử chỉ khoan thai, tiêu tan bao khổ lụy. Từ bi vô ngã, hỷ xả bao dung, quyết chí độ sinh, tùy duyên đa phương tiện. Một thân thị hiện, một kiếp hóa duyên, thỏa chí phỉ nguyền thừa hành Phật sự khắp mọi miền quốc độ. Ðạo đời lợi ích, một thể vuông tròn, ngàn năm còn mãi khắc ghi ơn tế độ.
Biết bao Phạm vũ, mấy chốn Tòng lâm, hàng vạn Ðạo tràng trang nghiêm thanh tịnh. Rừng thiền hoa nở, hương giới bay xa, chan hòa pháp giới. Chúng sinh ngưỡng mộ, thất chúng quy y. Ðạo tục sum vầy tình pháp lữ, nghĩa chúng sinh đồng thể đại bi. Ân đức ấy ví cao như núi, sánh tợ biển Ðông. Thực vậy:
“Hữu duyên vạn dặm còn tạn mặt
Vô duyên gặp mặt vẫn cách lòng”.
Thầy có nhớ chăng
“ Cây khô xuân đến hoa nở rộ,
Gió thoảng ngàn xa hương ngát bay”.
Nhưng hỡi ôi! Những tưởng tình đạo pháp trọn đời vạn kiếp chốn Ấn Quang kết cỏ ngậm vành. Quyết thượng hoằng hạ hóa chúng sinh, tục Phật huệ đăng truyền trì đạo. Nào ngờ đâu, một phút vô thường, âm dương cách biệt. Thầy đã đến và đi theo định luật vô thường. Quả thực:
“Duyên trần nay sớm vội chia bôi.
Hoa đàm sớm rụng, lệ rơi đôi dòng.”
Sự ra đi vĩnh viễn của Thầy không những là một sự mất mát lớn lao của Giáo Hội, cho Tăng Ni, Phật tử cũng như môn đồ tứ chúng, mà còn cho tập thể Linh Sơn cốt nhục Ấn Quang này. Từ nay, trên suốt đoạn đường còn lại của kiếp người, chúng tôi làm sao tìm lại được hình ảnh của một bậc hiền Tăng khả kính, làm mẫu mực cho mọi người cho đến khi hơi thở sắp tàn. Hết lòng phụng sự đạo pháp, phục vụ chúng sinh không biết mỏi cho đến khi hơi thở sắp tàn. Than ôi:
“Người xưa nay đã còn đâu
Chỉ còn mây bạc, lòng sầu tiếc thương.
Ra vào lòng dạ vấn vương,
Bóng hình Ðại sĩ du phương xa mờ.”
Giờ đây, niềm Tịnh cảnh Giác linh Thầy đã tiêu diêu tự tại, chứng vô sinh xin trở lại Ta bà, để cùng nhau kết giữa chan hòa, tình Pháp lữ Linh Sơn bất diệt. Chi đến khi nhân tròn quả mãn. Ðường giải thoát thong dong tự tại, giữa trần ai nhậm vận độ sanh, chứng viên thành đạo quả.
Hôm nay, trong phút vô thường, giữa trong lòng bất diệt, Thầy đã ra đi trở về thế giới Niết bàn, vô sanh bất diệt. Nhưng công đức, đạo hạnh của Thầy đã hiến dâng cho đạo pháp cùng chúng sinh vẫn còn sống mãi trong tâm tư, trong ký ức chúng tôi và những người con Phật. Cũng như Tăng Ni, Phật tử và chúng sinh trong tình Pháp giới viên dung vô ngại. Quả thật:
“Một mai thân xác tiêu tan,
Danh thơm vẫn ở thế gian muôn đời
Pháp thân lồng lộng sáng ngời
Sáng soi nhân thế rạng ngời chân như”.
Ðồng thời, chúng tôi xin thay mặt Ban Quản Trị Tổ Ðình Ấn Quang cùng chư Pháp hữu, những người bạn đồng hành, đồng sự Pháp lữ Ðại thừa của cố Thượng Tọa nguyện đoàn kết hòa hợp một lòng, kề vai sát cánh bên nhau, nỗ lực hoàn thành sứ mệnh và đoạn đường còn lại mà Thầy đã bỏ dở, đã góp phần xây dựng trang nghiêm, huy hoàng và hưng thịnh chốn Tổ Ấn Quang, cũng như các cơ sở liên hệ mà Thầy đã dày công xây dựng và hộ trì, càng phát triển trang nghiêm trong lòng dân tộc, làm tốt Ðạo đẹp Ðời.
Cuối cùng xin Thầy cùng chúng tôi kính nguyện:
Linh Sơn nghĩa cũ tình xưa
Ta bà Tịnh độ say sưa pháp mầu
Kiếp sau xin nhớ nguyện đầu
Xây tình Pháp lữ, bắt cầu tâm giao
Ðời nay đến những đời sau
Chung lo Phật sự với bao nhiêu tình
Quyết lòng độ tận chúng sinh
Từ bi, trí tuệ thỏa tình ước mong
Không rời bản thể chân không
Tùy duyên ứng hiện thong dong mọi miền.
Thôi, nơi thế giới Niết Bàn, xin Thầy hãy ngao du tự tại.
Xin vĩnh biệt Thầy!
Nam Mô Ấn Quang Ðường Thượng, Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Tứ Thế, Húy Nguyên Ðức, Hiệu Minh Phát Thượng Tọa Giác Linh Thiền Tọa Chứng Minh.
ÐIẾU VĂN
của Chư Ni các Tự Viện TP. HCM do Ni Trưởng đọc trước Kim Quan Cố Thượng Tọa Thích Minh Phát
- Phó Viện Chủ Tổ Ðình Ấn Quang - Quận 10.
- Phó Giám Ðốc Ðại Tòng Lâm Phật Giáo Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
- Ủy Viên Ban Từ Thiện Thành Phố Hồ Chí Minh.
- Trụ Trì Chùa Viên Giác - Quận Tân Bình
- Trụ Trì Chùa Phụng Sơn - Quận 11 – TP. HCM.
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo tác đại chứng minh.
Nam Mô Ðiều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tác đại chứng minh.
Ngưỡng bạch chư Tôn Thiền Ðức trong Ban Tổ Chức Tang Lễ cùng môn đồ pháp quyến.
Ngưỡng bạch Giác linh cố Thượng Tọa thùy từ chứng giám.
Trong giờ phút trang nghiêm thanh tịnh, chúng con kính cẩn nghiêng mình trước kim quan cố Thượng Tọa, để tỏ lòng quý tiếc bậc Cao Ðăng Thạc Ðức đã sớm lìa trần thế trở về giác tánh chơn nguyên.
Hỡi ôi!
Sóng khổ hải lao xao
Trời chơn như tịch mịch
Bậc đống lương một phút xa lìa
Ngôi long tượng nghìn thu cách biệt
Trăng Lăng Già im bóng
Mây Phổ Ðà ngừng trôi.
Thượng Tọa phút chốc bỗng về nơi tịch diệt. Ðành rằng cuộc thế vô thường, thăng trầm luân chuyển, dừng sanh diệt thay đổi liên tục không ngừng, sinh ly tử biệt là lẽ tức sắc tức không, nhưng hôm nay trước lò trầm hương đang quyện tỏa, đưa Thượng Tọa đến nơi an nghĩ nghìn thu. Trong cảnh thành, trụ, dị, diệt chúng con không sao khỏi bồi hồi xúc cảm, khi hình bóng từ hòa của Thượng Tọa từ nay vĩnh biệt.
Ôi! Kể từ nay Giáo Hội mất đi một bậc Cao Tăng sáng suốt, hàng Ni Tăng vắng bóng bậc Giới đức vẹn toàn, tín đồ Phật tử mất đi bậc Ðại Sư gương mẫu, thật không sự mất mát nào bằng.
Kính bạch Giác linh Thượng Tọa,
Chúng con vẫn biết, biển trầm luân vốn sắc không chuyển hóa, nay cảnh sắc không chốn Tổ hiện, sự nghiệp hoằng dương pháp của Giáo Hội còn đây, mà Ngài đành dạo gót về Tây, giả từ tất cả.
“Quảy dép về Tây chốn nghỉ ngơi
Hạc vàng cất cánh ngắm phương trời
Huyễn thân trả lại nơi trần thế
Giã biệt hôm nay có mấy lời”.
Ngài là bậc Thiệu Long Thánh Chủng, là vị Tứ chúng Trung Tôn, đống lương Phật pháp. Luôn luôn quan tâm đến việc đào tạo Tăng tài. Duy trì mạng mạch Như Lai. Trong chốn thiền môn Ngài là vị đức độ khoan dung, đã hướng dẫn Tăng, Ni, tín đồ theo con đường đạo pháp chân chính. Ngài đã hy sinh trọn đời vì đạo. Cuộc sống hạnh đức trang nghiêm của Ngài là tấm gương phản chiếu cho Tăng Ni chúng con. Cuộc đời hành đạo của Ngài đã nói lên hạnh nguyện lợi tha chẳng khác nào ngọn hải đăng chiếu sáng muôn dặm nơi biển khơi sanh tử. Ngài là hiện tàng tự tại đi ở khôn lường như: “Bóng nhạn liệng giữa trời xanh, đâu mong in dấu chân trên mặt hồ”.
Ngưỡng bạch Giác linh Ngài, để lòng tôn kính và báo đáp thâm ân Ngài, chúng con thành tâm noi gương cao cả của Ngài nguyện tích cực tuyên dương chánh pháp, nỗ lực thành tựu lý tưởng giải thoát, trang nghiêm Giáo Hội giữ vững tôn chỉ thuần túy của đạo Pháp, thăng hoa trên bước đường hành đạo. Hướng dẫn mọi người thẳng tiến trên lộ trình giác ngộ an vui cứu cánh, hầu báo đáp hồng ân chư Phật trong muôn một.
Giờ đây, chúng con quỳ trước kim quan một lòng thành kính đốt nén tâm hương dâng lên cúng dường mười phương chư Phật và kính điếu Giác linh Ngài, nguyện cầu Giác linh Thượng Tọa cao đăng Phật quốc, bất xả từ bi, thùy quang đổng chiếu, hồi nhập Ta bà, hóa độ chúng sanh, viên thành Chánh giác. Ngưỡng nguyện Ngài thùy từ chiếu giám. Ðồng thời chúng con cũng không quên thay mặt chư Tôn đức Ni các Tự viện (Ni bộ) thành tâm phân ưu cùng chư Tôn Ðức môn nhơn pháp quyến, chân thành kính chúc chư Tôn Thiền Ðức pháp thể vô biên an lạc để nêu cao đuốc tuệ chánh pháp.
Nam Mô Lạc Bang Giáo Chủ Ðại Từ Ðại Bi A Di Ðà Phật tác đại chứng minh.
ÐIẾU VĂN CỦA MÔN ÐỒ PHÁP QUYẾN
Siêu tiến Giác linh Bổn Sư, Sa Môn Thích Minh Phát viên tịch ngày 21 tháng 3 năm Bính Tý
Than ôi!
Kể từ nay:
Ðàn truyền giới vắng Thầy Ðiển Lễ
Chùa Ấn Quang khuất bóng Ân Sư
Nước Cực Lạc sen khai chín phẩm
Cõi Ta bà an giấc ngàn thu.
Nhớ Thầy xưa:
Căn trần thanh tịnh, xuất gia từ lúc tuổn còn thơ,
Bẩm tánh hiền hòa, hoằng pháp từ khi vừa tiến Cụ,
“Với gió mát trăng thanh kết bạn,
Cùng hoa Ðàm đuốc tuệ làm duyên.”
Từ đây, nơi pháp hội thêm người thoát tục,
Do đó, giới Tăng Ni có bậc siêu trần.
Mồi tửu sắc nhường cho trần thế,
Bả lợi danh đoạn tuyệt tâm hồn,
Nhịp mõ sớm, khua tan đêm trường mộng,
Tiếng chuông khuya, thức tỉnh kẻ đam mê.
Sẵn túc nhơn, trí tuệ biện tài,
Chân tham lễ nào đất Bắc, nào Trung phần, nào Nam Việt thân hầu nhiều chốn Tổ.
Theo đại nguyện, thi ân bố đức,
Kết duyên lành những Ai Lao, những Thái quốc, những Cao Miên du hóa khắp Ðông Nam.
Ðã tới lúc:
Trụ Pháp Vương gia,
Trì Như Lai tạng.
Thầy đương gia chức Phó Quản Sự Ấn Quang, Ðại Tùng Lâm Phật Giáo.
Rồi gặp khi:
Hoằng dương chánh pháp,
Tiến dẫn hậu côn,
Thầy lãnh trụ trì chùa Viên Giác, Viên Dung, cùng chùa Gò di tích
Những tưởng:
Ðộ sanh duyên mãi
Hóa đạo còn dài,
Ngờ đâu:
Tuổi đời chưa lão
Duyên bệnh lại nhiều.
Cho dù:
Linh đơn Biển Thước khó đuổi bệnh căn,
Diệu dược Kỳ Bà khôn xua thần chết.
Than ôi!
Ân xưa nhớ mãi
Tang mới buồn hoài
Sư, nay hóa duyên đã hết
Thầy, thần đạo chốn Liên bang
Lý vô thường sắc sắc không không
Thân tứ đại sanh sanh diệt diệt
Mơ màng dáng dấp ngàn thu, mưa mờ dấu bước;
Phảng phất mộng hồn muôn thuở, khói tỏa hình dung.
Thôi từ nay!
Phật giáo mất đi một vị chân tu đại hạnh;
Tín đồ thiếu hẳn bậc thầy chỉ lối đưa đường.
Khắp mọi miền bùi ngùi luyến tiếc,
Bao Phật tử gạt lệ chia ly.
Môn đồ vắng lặng tiếng Pháp âm,
Hiếu quyến không còn lời khuyên bảo.
Giờ đây trước linh cữu,
Hương trầm nghi ngút,
Ðèn tuệ sáng ngời.
Lời nguyện cầu cao đăng thượng phẩm,
Nhạc tiễn đưa vĩnh biệt thầy hiền.
Thuyền giải thoát xuôi buồm về đất Phật;
Hình Ân Sư đẹp mãi dưới trời Nam.
Ngửa mong linh giác thùy từ,
Dũ ánh quang minh chiếu giám.
Nam Mô Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật.
Thích Quảng Chơn kính ghi.
VĂN ÐIẾU
của HUYNH ÐỆ ÐỒNG MÔN
Than ôi!
Mưa chiều khói nước mịt mờ, thuyền con lạnh lẽo,
Ðêm vắng đèn thiền leo lét, trượng thất quạnh hiu.
Tìm dáng dấp thêm buồn,
Nhìn di dung càng nhớ.
Nay tông môn huynh đệ, bốn chúng Tăng Ni thuộc môn hạ của cố Hòa Thượng Bổn Sư thượng Thiện hạ Hòa.
Giờ này, đối trước linh đài, nghẹn ngào đau xót!
Nghĩ rằng: Thầy!
Ra đời độ sanh, hiện huyễn tướng như trăng lồng đáy nước,
Tùy cơ tiếp vật, tìm chơn thân như hiện bóng trong gương.
Nhớ Thầy, người:
Tánh hòa trăng trắng
Mắt tách hoa mờ.
Xứng danh huynh đệ nương gần
Ðáng bậc đàn na trọng vọng.
Nào ngờ:
Trần gian lặng bóng
Thánh cảnh an thần
Vẫn biết rằng tức sắc tức không
Nhưng xót nỗi nào sanh nào diệt.
Than ôi!
Vang bóng tìm nơi nao,
Người không pháp có sao,
Không đi vì không đến,
Chim in dấu trời cao.
Xin kính chúc Thầy,
Ðến nước Như Lai tiêu diêu muôn thuở,
Vào nhà Từ Phụ an nghỉ ngàn thu.
Và thầm gia hộ cho:
Ấn Tổ vuông tròn, Tăng Ni hòa hiệp,
Tôn Phong trong trắng, thiện tín triêm ân.
Tất cả một lòng,
Dâng hương mặc niệm.
Nam mô Phụng Vì Ấn Quang Tự, Từ Lâm Tế Chánh Tôn, Tứ Thập Tứ Thế, húy Nguyên Ðức, hiệu Minh Phát Ðại Sư Giác linh.
Thích Minh Thông (Nha Trang)
Ðiếu Văn
Nam mô A Di Ðà Phật.
Ðược ai tin Thầy đã an nhiên thị tịch, chúng tôi Ban Kinh Sư chùa Ðịnh Thành cùng Tăng, Ni, Phật tử, và chư Phật tử môn hạ chùa Viên Giác, cùng nhau về trước linh đài, xin thắp nén tâm hương cúng dường trợ tiến.
Kính bạch Giác linh Thầy:
Thầy vẫn thường nói:
Ta bà là cõi tạm, nơi gởi thân sanh tử trăm năm,
Cực Lạc ấy quê hương, chốn an mạng Niết bàn muôn thuở.
Thâu thần mà thẳng đến Vô dư,
Tình pháp lữ phải thăm phải viếng.
Bạch Thầy:
Mới ngày nào,
Thầy còn đăng đàn tuyên dương chánh pháp
Tôi thì niệm chùy kích cổ xuy loa
Tình huynh đệ say sưa đạo vị
Nghĩa kim bằng công án cùng tham.
Nghĩ cũng tưởng:
Cái gót tùy duyên vẫn mãi
Nụ cười hỷ xả luôn hoài.
Nào ngờ đâu:
Cửa trần gian lặng khép
Sen Cực Lạc liền khai
Thôi từ nay!
Trăng lạnh phương bào
Mây mờ viên đảnh
Một bước chia tay muôn thuở
Giữa đường rẽ gánh ngàn thu.
Giờ này trước linh tòa phảng phất mộng hồn như thật, đau buồn kẻ ở người đi.
Chúng tôi kiều cần năm vóc, qui mạng Phật Ðà dâng hương kính nguyện:
Trên ao cửu liên sáng soi đưa xuống
Trong nhà Tam Bảo hoa rải rước về
Ðộ sanh còn nhớ lời thề
Tiếp chúng chưa quên ý nguyện
Tái lai thị hiện ứng hóa độ sanh.
Nam Mô Sanh Phật Quốc Bồ Tát Ma Ha Tát.
Thích Lệ Trang kính ghi
Cảm niệm Ân Sư
của toàn thể Môn Ðồ Pháp Quyến
Nam Mô A Di Ðà Phật
Kính bạch Giác linh Thầy.
Thầy ôi!
Ðèn thuyền xao gió,
Trăng giới lờ mây.
Nét bước tượng vương, nơi cửa pháp mơ màng trước mắt,
Tiếng kêu sư tử, lối rừng chiên vắng vẻ bên tai.
Vả chăng hay: Sắc tướng trò chơi đất cửu hữu,
Vẫn biết rằng thân này là ngũ uẩn,
Nhưng ngặt vì nỗi sư đồ nghĩa nặng.
Thuở xưa kia, trời Tứ Không còn khóc cảnh Song Lâm,
Thì nay đây, trước cảnh biệt ly, chúng con làm sao ngăn được đôi dòng lệ đổ.
Giờ này:
Chúng con quỳ trước linh đài, giữa khung cảnh trang nghiêm, hương trầm quyện tỏa, thành kính dâng lên Thầy lời tâm sự sau cùng,
Ðể rồi vĩnh viễn Thầy trở về cảnh giới Niết Bàn, và kể từ nay, chúng con đành mất đi bậc Ðạo Sư cương kỷ.
Kính bạch Thầy:
Chúng con nhớ lại!
Buổi xa xưa, nơi rừng Song Thọ, đức Thế Tôn vào đại định Niết Bàn,
Thì ngày nay, trụ xứ Ấn Quang, Thầy an nhiên thâu thần về cõi Phật.
Thuở sanh tiền:
Ðức hạnh của Thầy, vời vợi non cao
Gương tánh trong ngần, sóng tình bặt dứt,
Căn trần thanh tịnh, nương vào túc thế thiện duyên.
Chí nguyện xuất gia, vào chùa lúc tuổi còn thơ ấu,
Theo hầu bên Hòa Thượng Tôn Sư,
Thân cận cùng đồng môn huynh đệ.
Nơi Ấn Quang đêm ngày công quả, phát sanh trí huệ bao la,
Xem trần gian giấc mộng chiều tà, lòng hỷ xả lợi tha là hạnh.
Gót Tăng lữ, khắp mọi nơi Thầy dạo bước,
Chốn môn đình, Thầy tuân giữ nghiệp gia phong.
Sớm tối ân cần,
Tinh chuyên tu niệm.
Xứng ngôi bốn chúng tôn thờ,
Ðáng bậc mọi người cung kính.
Nhớ Thầy!
Tuổi còn trẻ mà vai hoằng Phật sự,
Vì lợi sanh chẳng quản đến thân mình.
Cho đến lúc nghiệp bệnh ràng thân,
Thầy vẫn sớm tối ân cần tụng niệm,
Phật sự nhiều nơi cần đến,
Thầy đều thật dạ lo toan,
Thầy thường dạy bảo chúng con,
Phải luôn tô bồi công đức.
Nhớ lại thuở Hòa Thượng Tôn Sư viên tịch,
Thời nhiễu nhương, sinh hoạt thiếu thốn, Tăng chúng khó yên tu.
Vâng lời truyền di huấn của Tôn sư,
Thầy đảm nhận kinh tế nuôi Tăng chúng.
Trước chùa Ấn Quang, Thầy đã tự thân đứng bán,
Nào thơm, nào mía, nào hủ tiếu, nào thức ăn,
Tạo ra từng đồng tiền để làm phương tiện nuôi chư Tăng ở yên tu học.
Tự tay Thầy nấu nướng, từng thức ăn thức uống, dâng chư Tăng no đủ để yên lòng.
Mong Tăng Già tu học đến thành công,
Nương theo hạnh Như Lai mà độ chúng
Có vị nào tật bệnh,
Dù ở tận nơi đâu Thầy cũng đều giúp sức.
Lo toan nơi nhà bếp,
Cùng môn đồ tứ chúng kết thiện duyên.
Xem bệnh hốt thuốc nam,
Vì người mà cứu khổ,
Tới lui nơi đường chợ,
Cũng vì chùa mà tìm nẻo sanh phương.
Tổ chức hành hương,
Dẫn Phật tử tham quan khắp xứ,
Bắc, Trung, Nam bộ,
Vạn dặm sơn hà.
Ðất Thái, Lào một thuở lại qua,
Xứ Cam Bốt nhiều phen lui tới.
Ði cứu trợ mở mang vận hội,
Khắp Nam kỳ lục tỉnh vừa rồi,
Lũ Quảng Bình cũng đến tận nơi,
Hà nội, biên cương, Trường Sơn nào quản.
Một đời tròn công quả,
Vẹn nghĩa với sanh thành.
Chùa Ấn Quang Phật sự đã chu viên,
Nơi Viên Giác trùng tu còn dang dở.
Thật là:
Mảnh chơn tướng dễ lờ nước thủy,
Ðiểm không hoa chẳng dính dịu trần.
Bước vào đời chẳng ngại khó khăn,
Suốt một kiếp vui câu đạo lý.
Biển thệ nguyện bao la rộng lớn,
Trời chân tâm sáng tỏ làu làu.
Sửa sang chùa tháp trước sau;
Lợi vật, lợi nhân tùy thời cứu giúp,
Chúng sanh cần thì đến, chẳng ngại gian lao.
Ðạo pháp cần thì đi, không nề khó nhọc.
Chúng con cũng nhờ nơi phước đức căn lành dành sẵn, được gặp Thầy theo mà học đạo Như Lai.
Trừ tội chướng, một đao xuống tóc,
Phú phước điền, ba lớp truyền y,
Ðạo đức say sưa,
Thầy trò hoan hỷ,
Lý kinh nghĩa luật, giọng pháp âm tỏ rõ ngọn ngành,
Chỉ lối mở đường, đưa chúng con đến nhà Bảo sở.
Những tưởng:
Thầy trò mãi cùng nhau sum họp,
Mãi cùng nhau phụng sự đạo mầu.
Giấc Hoàng lương chưa hết vội đâu,
Ðất Cửu trụ còn nhiều duyên gần gũi.
Nhưng hỡi ôi!
Bầu thuốc thánh khó cứu người tận số,
Chén linh đơn khó chữa bệnh nan y.
Sáng mờ sương Thầy từ giã mọi người,
Lời vĩnh biệt khó mong ngày tái ngộ.
Trống Bát nhã vang rền nơi chốn Tổ,
Chuông Lôi âm giục tiễn khách vào thiền.
Sống Ta bà bốn mươi mốt xuân thu,
Và nhập được hai mốt mùa kiết hạ.
Giờ đây:
Tấm áo Cà sa sương lạnh ngắt,
Cành hoa Bát nhã gió buồn hiu.
Khi nào Thầy thăng tòa, trò niêm chùy cùng nhau sum vầy nơi pháp hội,
Bây giờ trò Ta bà, Thầy Cực Lạc biết bao sùi sụt nỗi ly tư.
Lơ láo một mình nơi chùa cũ,
Ðau buồn vì nỗi vắng bóng Thầy.
Biết đi về ngàn dặm đâu đây,
Tìm nơi nao mong chừng gặp lại.
Thầy ơi! Kể từ nay:
Biết cậy ai ngày la đêm nhắc,
Biết nương ai sớm dắt tối dìu,
Biết hỏi ai mở trí nguyên thần,
Biết nhờ ai nuôi thân huệ mạng.
Than ôi!
Chốn Tòng lâm bực Tôn đức lìa ngôi,
Trong Tăng giới thiếu đi người đại hạnh.
Chúng con nhớ lại Thầy,
Biết bao năm hoằng thệ,
Lúc tịnh tu, khi khai đạo độ đời,
Ðến hôm nay,
Thuyền Ðại nguyện trở về neo bến giác.
Xem Tam thừa giục thúc buổi đăng trình.
Môn đệ buồn vì đôi ngã tử sinh,
Thiện tín tủi vì mất Thầy dìu dắt.
Thầy ra đi lúc tuổi đời chưa lão,
Khi hai vai còn nặng gánh đạo đời.
Than ôi!
Sữa pháp mất rồi, lòng còn đói mãi,
Thiền phòng vắng vẻ, trượng thất bụi mờ.
Biết tìm đâu hình bóng từ hòa,
Ðã hướng dẫn con đi vào đạo.
Ðất nước Như Lai, Thầy dạo chơi muôn thuở,
Vào nhà Từ Phụ, Thầy an nghĩ ngàn thu.
Có hay chăng một đàn con dại,
Ðang ngẩn ngơ giữa buổi xuân tàn.
Ô hô!
Vân tán, tuyết tan,
Hoa tàn, nguyệt khuyết,
Ngày xưa rừng Ta La còn là nơi diệt độ,
Giờ đây Ấn Quang buồn đưa tiễn gót Thầy đi.
Biết tìm đâu ra hình bóng uy nghi,
Bậc Thầy khả kính Tăng Ni nể vì.
Ngưỡng mong Giác linh Thầy!
Nơi Liên Trì phó hội,
Nước Cực Lạc nghe kinh.
Nương thuyền từ thệ nguyện độ sinh,
Khắp ba cõi vào ra tự tại.
Giờ này:
Mây Bát Nhã trên nền trời không in dấu,
Hoa Ưu Ðàm rơi rụng vẫn dư hương.
Ngày mai đây,
Nhục thân Thầy sẽ rời chốn Phật đường,
Nhưng giác tính hằng nêu gương bất diệt.
Ðôi lời tâm sự, một bức ai văn,
Ðệ tử kiền thành, hòa nam bái bạch.
Thích Ðồng Văn cung soạn.
Văn TÁC BẠCH
CÚNG DƯỜNG BÁO HIẾU ÂN SƯ THƯỢNG MINH HẠ PHÁT
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kích bạch, Chư tôn Hòa Thượng, Chư Thượng Tọa, Chư Ðại Ðức Tăn, Ni.
Hôm nay hiếu đồ pháp quyến chúng con có duyên sự đầu thành đảnh lễ xin dâng lời tác bạch.
Nam Mô Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật tác đại chứng minh.
Ngưỡng bái bạch Chư Tôn Hòa Thượng, Chư Thượng Tọa, Ðại Ðức Tăng, Ni.
Chúng con kính nghe:
Ta Bà cõi tạm, nơi gởi thân sanh tử trăm năm,
Cực Lạc quê hương, chốn an mạng Niết bàn muôn thuở.
Tùy duyên vô ngại,
Ði ở khôn lường.
Thiệt là:
Quảy dép về Tây chốn nghỉ ngơi,
Hạc vàng cất cánh ngắm phương trời,
Huyễn thân bỏ lại nơi trần thế,
Giã biệt hôm nay luống ngậm ngùi.
Từ đây,
Mơ màng hồn mộng năm canh, linh tòa tịch mịch,
Vắng vẻ hình dung muôn thuở thiền thất cô liêu.
Nhớ khi nào,
Khách viên đảnh, bạn phương bào, cùng Thầy hội ngộ,
Người phù bôi, kẻ chấn tích, một thuở tao phùng.
Nhưng rồi vật đổi sao dời,
Huyễn thân biến thiên sanh diệt.
Xót nỗi hoa trôi nước chảy,
Chạnh lòng vắng bóng Ðạo sư.
Hỡi Thầy!
Duyên hóa độ đeo mang thuở nọ, Thầy gỡ sao đành,
Gánh từ bi gởi gắm ngày nào; Thầy sang sao nỡ.
Nhưng rồi:
Sanh bất hư sanh, tử vô lãnh tử,
Ðàm hoa lạc khứ, hương khí hữu dư.
Giờ đây,
Mái chùa Tổ vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nơi Ấn Quang đạo tràng, Thầy đã giả biệt chúng con rồi.
Năm canh khó nói nên lời,
Sáu khắc đợi chờ gặp gỡ!
Ðể báo đáp phần nào trong muôn một, mà bậc Thầy khả kính đã dìu dắt chúng con,
Trong những lúc diện mạng nhĩ đề, truyền trao Phật giới,
Trong những khi sum vầy pháp hội, phúng tụng kinh văn.
Ðể rồi ngày mai đây, nhục thân Thầy sẽ trở về cõi vô cùng,
Và chúng con vĩnh viễn mất đi một người Thầy đại hạnh.
Với tấc dạ chí thành, cõi lòng tha thiết, chúng con xin đê đầu cung thỉnh Chư Tôn Thiền Ðức, phạm sát Tăng Già thọ lãnh sự cúng dường của chúng con.
Nguyện hồi hướng công đức này đến Giác linh Thầy chúng con pháp húy Nguyên Ðức, hiệu Minh Phát Ðại Sư, ngự trên linh đài trượng nhờ công đức này thượng phẩm thượng sanh, cao đăng bất thối.
“Với chén cơm đầy mùi thiền vị,
Với canh rau tròn nghĩa đạo tình”.
Ngưỡng mong:
Ðại đức Thần Tăng thùy từ doãn nạp.
Ðệ tử chúng con hòa nam thượng cúng.
Nam mô Phổ Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nam mô A Di Ðà Phật.
Trên Chư Tôn Tịnh Ðức đã thương xót lòng thành khẩn của chúng con mà hứa khả việc cúng dường này. Ðể cảm tạ thâm ân cao dầy đó, đệ tử chúng con xin đại vì Giác linh Thầy đầu thành đảnh lễ chư Tôn Ðức tam bái.
Thích Ðồng Văn cung soạn
Văn TÁC BẠCH
của Ban Quản Trị và Ni Chúng Ni Trường Dược Sư
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo tác đại chứng minh.
Nam Mô Ðiều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tác đại chứng minh.
Ngưỡng bạch Giác linh Thượng Tọa thùy từ chứng giám.
Hôm nay đứng trước kim quan, chúng con xin thay mặt Ban Quản Trị, cùng toàn thể Ni chúng và chư Phật tử Ni Viện Dược Sư, đốt nén tâm hương, đê đầu đồng kính bái Giác linh Thượng Tọa.
Lời đầu tiên, chúng con kính mong Giác linh ngài, thượng xót chúng con được gọi lên tiếng Thầy cao quý, ấm áp thâm tình như ngày nào Thầy còn hiện hữu với chúng con.
Thầy ơi! Ôi hai tiếng gọi thiêng liêng cao cả quá. Bởi vì, đối với Ni Viện Dược Sư, ở Thầy ngoài nghĩa ân của một bậc Thầy, tự bao giờ Thầy vẫn luôn hiện hữu trong chúng con, cao cả như một đấng cha lành. Vậy thì, có niềm đau nào vượt trên niềm đau của những người con đang khóc cho cha.
Nhớ khi xưa! Thầy đã từng dạy cho chúng con:
Ðản nguyện không chư sở hữu
Thận vật thực chư sở vô
Hảo trụ thế gian
Giai như ảnh hưởng.
Nghĩa là:
Chỉ nguyện làm không những cái có
Giữ đừng làm có những cái không
Ðứng yên trong cõi Ta bà
Hệt như tiếng vang, như bóng dáng.
Hỡi ôi! Pháp âm xưa còn đó, còn hình hài Thầy đã phân ly.
Dẫu biết rằng: Sinh là Ký, Tử là Quy.
Tử sanh kiếp kiếp trong dòng tục
Bệnh lão đời đời dưới vực sâu.
Là bậc đại nhân, sanh tử đại mộng, Thầy đã tỉnh còn chúng con đang mang nặng kiếp nhân sinh, thì làm sao thoát khỏi cảnh buồn thương. Từ nay không còn nữa, bóng hình Thầy giản dị, khoan dung đầy hoan hỷ, không còn được dịp vui mừng chào đón Thầy là một tấm gương lợi tha cao cả, hiếu hạnh vuông tròn. Thầy như ánh sáng, như vì sao Bắc đẩu chiếu rọi khoảng trời mờ mịt âm u. Hạnh nguyện của Thầy là hạnh nguyện của một vị Bồ tát, vì rộng độ chúng sanh mà thị hiện cõi Ta bà.
Nhớ lại ngày nào Ni Viện Dược Sư, được nhị vị Hòa Thượng dày công sáng lập với bao tâm huyết, đào tạo Ni tài. Ðã có biết bao cánh chim trưởng thành, mãi miết bay vào đời để phụng sự đạo pháp. Sau khi nhị vị Hòa Thượng viên tịch. Ni trường Dược Sư vẫn hoạt động dưới sự lãnh đạo của Ni bộ và vẫn nương về Tổ Ðình Ấn Quang, thường xuyên được sự chỉ giáo của chư Tôn Ðức, và tự bao giờ Thầy đã trở thành vị Thầy trực tiếp chăm lo cho Ni chúng Dược Sư từ vật chất lẫn tinh thần.
Tuy tuổi đời còn trẻ, nhưng sự cống hiến của Thầy còn cao hơn cả một đời người. Thầy hy sinh sức lực cho chúng con, không chỉ vì Thầy là vị thừa kế sự nghiệp hoằng hóa của nhị vị Hòa Thượng. Mà sâu thẳm trên tất cả, đó là vì hạnh nguyện lớn lao của một vị Bồ Tát.
Thời gian trôi qua, chúng con vẫn tưởng được nương nhờ mãi dưới bóng mát của Thầy. Ni trường Dược Sư qua bao tháng năm đã bị hư mục dột nát, là lãnh đạo Ni chúng, chúng con lo một, nhưng Thầy lại lo mười. Thế là Thầy đã nuôi chí nguyện lớn lao là đại trùng tu ngôi Tam Bảo. Cũng chính trong thời gian này Thầy lại lâm trọng bệnh. Nhưng xác thân Thầy càng đau đớn, thì chí nguyện và nghị lực của Thầy càng thêm kiên cố. Vừa là cố vấn, vừa chỉ huy, vừa vận động tài chánh xây cất, vừa lo cho chúng con với cái lo của một người cha. Từng cọng cải, từng củ khoai, Thầy chắt chiu gởi về cho Dược Sư. Mùa an cư đến, Thầy lo sao cho Ni chúng đủ đầy ăn mặc để tâm tư tu học. Ôi! Kể sao cho hết nghĩa ân cao sâu vời vợi.
Hơn một năm, ngôi chánh điện được hoàn thành, cũng là lúc sức Thầy cạn kiệt. Thầy chấp nhận lên đường sang Thái Lan trị bệnh, không phải vì tấm thân giả tạm mà vì bao hạnh nguyện chưa tròn.
Nhưng! Nhiệm mầu thay Phật pháp. Một ngày kia chúng con nhận được tin Thầy vẫn khỏe mạnh, từ Thái Lan gọi về bảo hãy nhanh chóng tiếp tục xây dựng Ni xá còn dang dở. Dẫu như ngọn đèn trước gió, nhưng không hiểu sức lực nào mà Thầy cứ tuôn chảy mãi chờ chúng con, để rồi hơn hai năm vượt qua bao khó khăn, ngôi Tam Bảo được hoàn thành viên mãn.
Ngôi chùa giờ đây uy dũng, trang nghiêm. Nhưng không thể nào cao lớn hơn công đức chí nguyện và nghĩa ân của Thầy. Rồi đây, ngày ngày lên Chánh điện, chúng con sẽ không quên hình ảnh Thầy, trước điện Phật niệm hương, ngang qua dãi phòng, liêu khang trang còn thơm mùi vôi, sơn mới. Chúng con sẽ nhớ mãi bóng dáng từ hòa pháp âm của Thầy đã dạy dỗ cho chúng con.
Thầy ơi! Tiết trời có lạnh rồi mới biết sức chịu đựng của cây tùng, cây bách. Gặp những thử thách của cuộc đời mới biết ai là người sống trung kiên vì đạo; hạnh nguyện nào, mới chính là hạnh nguyện của một bậc Ðại nhân.
Bốn mươi mốt tuổi đời, hai mươi mốt Hạ lạp. Còn quá trẻ, nhưng Thầy đã đi hết đoạn đường nhân thế, với nhân cách và đạo phong rực rỡ như ánh trăng rằm. Xác thân huyễn hóa rồi sẽ trở về cát bụi hư vô. Còn đâu nữa, có còn chăng là phần tinh anh của Thầy còn sống mãi và soi sáng chúng con trên bước đường phụng sự đạo pháp.
Kính lạy Giác linh Thầy!
Ðôi vai chúng con, giờ đây hoằng nặng nghĩa ân - Trước, là nghĩa ân của nhị vị Hòa Thượng – Nay, là ân đức của Thầy - Một bậc Thầy duy nhất mà chúng con khó tìm được vị thứ hai. Nhưng, nghĩa ân đâu chỉ báo đáp bằng lời, mà phải hành động.
Chúng con nguyện: Noi gương đại nguyện của Thầy, tinh tấn tu hành, nghiêm trì giới luật, xây dựng một Ni Viện Dược Sư ngày càng trang nghiêm hưng thạnh, đúng như nguyện ước của Thầy thuở còn sinh tiền. Dẫu thời gian có đi qua; mười năm, năm mươi năm hay một trăm năm sau. Bao thế hệ Ni sinh tiếp nối vẫn phải luôn khắc ghi rằng: Ðể có được cơ ngơi ngày hôm nay, là kết quả của bao tâm huyết, bao hy sinh của Thầy. Hy sinh không kể bản thân mình, mà chỉ vì mục đích cao cả, vì tiền đồ Phật Pháp, vì chí nguyện lợi tha.
Hạnh nguyện cuộc đời Thầy để lại
Giờ đây xin kính thành lễ bái
Nguyện một lòng tiếp bước Thầy qua
Ðể ngày mai Ni Viện nở hoa
Và đạo pháp bừng lên trong ánh sáng.
Toàn thể Ni chúng Ni Viện Dược Sư, đồng kính bái biệt Ân Sư muôn thuở.
Thầy ngự trên tòa Thượng phẩm cao
Hoa sen đua nở tự tiêu dao
Tây phương trở gót xin hồi nhập
Tiếp độ chúng sinh tự thuở nào.
Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ Tát Ma Ha Tát tác đại chứng minh.
Ðiếu Văn
TANG LỄ CỐ THƯỢNG TỌA THÍCH MINH PHÁT
PHÓ BAN QUẢN TRỊ TỔ ÐÌNH ẤN QUANG
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo Tác Ðại Chứng Minh
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Ngưỡng bạch Giác linh cố Thượng Tọa:
- Ủy Viên Tiểu Ban Từ Thiện Xã Hội THPG – TP.HCM.
- Ủy Viên Từ Thiện Xã Hội Ban Ðại Diện Phật Giáo, Quận 10
- Phó Ban Quản Trị Tổ Ðình Ấn Quang - Quận 10
- Phó Giám Ðốc Ðại Tòng Lâm Phật Giáo - Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Trụ Trì Chùa Phụng Sơn - Quận 11.
- Trụ Trì Chùa Viên Giác - Quận Tận Bình.
Trong giờ phút uy nghiêm thanh tịnh chúng con đại diện ban Chủ nhiệm trường Cơ bản Phật học Long An chùa Long Hoa. Kính cẩn nghiêm mình trước linh đài cố Thượng Tọa.
Ðể tỏ lòng quý tiếc một bậc Cao Tăng Thạc Ðức sớm xa lìa trần thế trở về với giác tánh chơn nguyên.
Làm sao không quý tiếc được khi nghĩ rằng: Từ nay Giáo Hội vắng bóng một vị lãnh đạo sáng suốt, hàng Tăng Ni mất đi một bậc giới đức vẹn toàn, tín đồ Phật tử mất đi một bậc đạo sư khả kính. Ðạo tràng vĩnh viễn vắng bóng vị Cao Tăng, một mẫu người lý tưởng của Phật giáo. Ngài là bậc Thiệu Long Thánh Chủng, là vị Tứ Chúng Trung Tôn, đống lương Phật pháp, tánh tình hiền hòa khiêm tốn, đức hạnh khả phong, đạo tâm vững chắc, là nhà tu hành chân chánh, đạo cao đức trọng, học vấn uyên thâm, có tinh thần phụng sự đạo pháp, ngài đã thể hiện tinh thần bi, trí, dũng trong công hạnh Vô Ngã Vị Tha, tận lực chuyên tâm vào sự nghiệp hoằng dương chánh pháp, phục vụ nhân sinh trong suốt cuộc đời mình.
Ðời ngài từ buổi sơ tâm cho đền lúc hóa duyên đã mãn, là tấm gương chiếu sáng trong công phu tu thân, hành đạo cho cả giới xuất gia lẫn tại gia. Ngài luôn lấy giới hạnh tinh nghiêm làm thân giáo để răn dạy sách tấn kẻ hậu lai.
Như bóng trăng, ngài đã kéo dài ánh sáng huyền diệu giữa lòng dân tộc. Ngài đã thắp sáng lên trong tâm hồn hàng triệu người con Phật, đức tin trong sáng của chánh pháp.
Thật là quý tiếc! Ngày nay cố Thượng Tọa không còn nữa, là một mất mát lớn lao cho Giáo Hội.
Mong sao đạo phong giải thoát của Ngài vẫn hiển hiện cùng mười phương ba cõi. Ðạo pháp huy hoàng, nhân sanh an lạc.
Ngưỡng bạch Giác linh Thượng Tọa.
Ðể tỏ lòng tôn kính và báo đáp thâm ân ngài, chúng con thành tâm noi gương cao cả của ngài. Nguyện tích cực tuyên dương chánh pháp, nỗ lực thành tựu lý tưởng giải thoát, trang nghiêm Giáo Hội, giữ vững tôn chỉ thuần túy của đạo pháp, thăng hoa trên bước đường hành đạo, đem lại cho người con Phật một niềm tin vô biên chân lý Phật Ðà, hướng dẫn mọi người thẳng tiến trên lộ trình giác ngộ an vui cứu cánh.
Giờ đây chúng con quỳ trước kim quan một lòng thành kính đốt nén tâm hương dâng lên cúng dường mười phương chư Phật và kính điếu Giác linh ngài nguyện cầu Giác linh Thượng Tọa cao đăng Phật quốc, bất xả từ bi, thùy quang đổng chiếu, hồi nhập Ta bà, hóa độ chúng sanh viên thành chánh giác.
Ngưỡng nguyện ngài thùy từ chiếu giám. Ðồng thời chúng con cũng không quên thay mặt Ban Chủ Nhiệm Trường Cơ bản Phật học Long An chùa Long Hoa. Thành tâm phân ưu cùng Chư Tôn Ðức môn đồ pháp quyến. Chân thành kính chúc Chư Tôn Thiền Ðức pháp thể vô biên an lạc, để nêu cao đuốc tuệ chánh pháp.
Nam Mô Lạc Bang Giáo Chủ Ðại Từ Ðại Bi A Di Ðà Phật.
Ðiếu Văn
TĂNG NI SINH TRƯỜNG CƠ BẢN PHẬT HỌC ÐẠI TÙNG LÂM
Kính bạch Giác linh Thầy.
Than ôi!
Cây tùng đổ giữa trưa hè xang nắng,
Ðàn chim côi vỡ tổ xạc xào bay,
Ðại Tòng Lâm còn đó với tháng ngày,
Mà hình bóng của Thầy chừ biền biệt.
Kính bạch Giác linh Thầy.
Chuyện vô thường từng sát na sinh diệt,
Tin đưa về vẫn là tiếng sét ngang mày,
Bởi tình, bởi nghĩa sâu dầy,
Bởi ân, bởi đức ví tày núi sông.
Chúng con nhớ khi xưa,
Nơi rừng xanh dựng bảng trường chiêu sanh nuôi chúng,
Mái lá đơn sơ,
Phên vách đất gió lộng,
Từ bốn phương chiêu tập học Tăng,
Ðốt đèn – Mài mực, chuyên cần bút nghiên.
Quê rừng cảnh vật buồn tênh,
Nắng sang – Mưa đọng, bên hiên cỏ bồng.
Thầy về một sớm mùa xuân,
Ðắp đường - Lấp hố, hoa trồng – Nhà xây,
Mái trường nên dạng từ đây,
Chúng con học tập tháng ngày yên vui.
Chúng con làm sao quên,
Những chuyến xe vào ngày chủ nhật,
Chờ gạo rau từ thành phố đưa về,
Thầy dù công việc trăm bề
Nao nao tấc dạ nhớ về đàn con!
Hạt muối mặn, chén tương thơm,
Ðầu chùa - Cuối bếp Thầy luôn vẹn toàn.
Công lao ấy nhọc nhằn chi xiết
Nụ cười hiền vẫn nở trên môi.
Bốn mùa nước chảy hoa trôi,
Xuân thu hoán chuyển đến rồi lại đi.
Hết khóa nọ, tới khóa kia,
Xa trường – Xa lớp, ơn kia mài gần.
Kính lạy Giác linh Thầy,
Từ đây,
Những buổi chiều mây về núi Thị,
Chạnh lòng người mây trắng đậu mênh mang.
Còn đâu nắng sớm huy hoàng,
Còn đâu chim hót,
Rừng tràm hòa vui,
Ðêm đêm hoa cỏ ngậm ngùi,
Trông lên trời thẳm, sao rơi bao đàn?...
Chúng con những mái đầu xanh,
Kính thương đốt nén hương lòng dâng lên.
Giác linh Thầy ngự tòa sen,
Chứng tri tất dạ niệm ân vô cùng.
Thầy chừ ba cõi thong dong,
Ði về hóa độ đáp ơn Phật Ðà.
Chúng con giữa chốn Ta bà,
Nguyện Thầy sớm bước lên tòa Như Lai.
Ðiếu Văn
CỐ THƯỢNG TỌA THÍCH MINH PHÁT
- Phó Tổng Quản Sự Tổ Ðình Ấn Quang
- Phó Giám Ðốc Ðại Tùng Lâm Phật Giáo
của TĂNG NI SINH TRƯỜNG CAO CẤP PHẬT HỌC VIỆT NAM TP. HỒ CHÍ MINH
Ngưỡng bạch Giác linh Thầy!
Hỡi ơi!
Những tưởng cây tùng bách còn vươn vai cùng sông núi
Ai dè đâu nửa đường chim trắng lả đường bay!
Ngôi nhà cao gãy một trụ, đớn đau thay.
Trời đất lịm phút giây ngôi sao rụng.
Thế hệ chúng con dù ở phương nào trên đất nước, dù thuộc hệ phái nào trong nguồn đạo Phật Ðà, cũng không ít thì nhiều, không gần thì xa đều thấm nhuần ân đức của Thầy. Trong tập thể Tăng Ni sinh trường Cao cấp Phật học Việt Nam khóa III của chúng con, có đủ màu áo của mọi hệ phái, theo đó, có đủ âm sắc giọng nói của ba miền, tuy nhiên, đều có một tấm lòng chung, là sự quý kính Thầy. Hôm nay chúng con xót xa vô cùng khi được tin Thầy xả bỏ báo thân về nơi vĩnh tịnh.
Kính lễ Giác linh Thầy.
Tàng cổ thụ tỏa bóng từ bi trải thân vạn trượng.
Lớp mầm non vươn mình hạnh nguyện ươm nụ ngàn năm.
Giờ đây bóng mát đâu còn
Giờ đây núi đổ cạn nguồn sao đang?
Mạch nguồn thanh lương bất tận trào dâng từ trái tim hồng thắm, với tâm từ vô lượng, Thầy là hình bóng sáng ngời thể hiện lý tưởng Phật Ðà.
Máu hồng trong mọi màu da,
Tình thương không kể rằng xa hay gần
Ðạo từ bi, kho báu chung
Trời Nam, bể Bắc cũng nguồn tánh linh.
Với hạnh nguyện cao cả đó Thầy đã rải bước chân khắp mọi miền đất nước, nơi nào có khổ đau, nơi đó có bóng Thầy.
Lũ Cửu Long, Thầy trầm ngâm tìm phương cứu trợ
Bão Sơn Tây, Thầy cấp tốc gởi gạo, gởi chăn
Từ thượng du tới đồng bằng
Thầy là mẹ của muôn dân khó nghèo
Thân một tấm ngược xuôi chi kể
Miễn làm sao xoa dịu được niềm đau
Trên đền ơn Phật vời cao
Dưới là hóa độ nôn nao tấc lòng
Ðường trăm nẻo sá chi gai góc
Thuốc ngàn thang chẳng nể bình thân
Ánh từ bi nơi đôi mắt ân cần
Lời tha thiết chuyển ý linh cao vợi
Chúng sinh khổ đau Thầy phụng sự
Chư Phật ba đời Thầy báo ân
Những ngôi chùa ở rừng xanh núi đỏ
Thiếu ngói, thiếu tôn Thầy kêu gọi cúng dường
Danh Thầy rạng rỡ muôn phương
Thầy đi bao kẻ lòng vương vấn lòng.
Ngưỡng bạch Giác linh Thầy.
Ngoài kia bầu trời ảm đạm, không gian lắng chìm, bao hoa lá cỏ cây đang cúi đầu ngậm ngùi nuối tiếc như đồng cảm với nỗi đau đớn của Tăng Ni sinh chúng con trước sự ra đi vĩnh hằng của Thầy.
Thiệt là:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Thôi, từ đây,
Rặng tre già khó lay ảo não
Búp măng xanh nắng táp mưa chan
Ðường lên thượng bùi ngùi giọt lệ
Nẻo về xuôi thượng tiếc muôn vàn
Giờ đây quỳ trước kim quan
Nguyện Thầy trở lại trần gian độ đời.
Nam Mô Tân Viên Tịch Ấn Quang Ðường Thượng, Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Thế, Húy Nguyên Ðức Hiệu Thượng Minh Hạ Phát Thuyền Sư Nhục Thân Thiền Tọa Hạ Tác Ðại Chứng Minh.
Ban Ðại Diện
Tăng Ni Sinh Trường CCPHVN TP. HCM
Ðồng Kính Bái
Nhớ Thầy!
Hôm nay Thầy ra đi
Tăng Ni và Phật tử
Ngẩn ngơ như sét đánh
Tin buồn nhanh chóng loan.
Nơi nơi đều cúi mặt
Lệ buồn âm thầm rơi
Chùa xưa nay còn đó
Bao dấu tích khó mờ.
Mọi nơi và mọi miền
Ðều in dấu chân Thầy
Ðức hạnh tỏa muôn phương
Từ bi ban rải khắp.
Làm lợi lạc chúng sinh
Không ngăn chia ranh giới
Công viên và quả mãn
An nhiên vào cõi tịch.
Cầu Phật từ thương xót
Tiếp độ Thầy về Tây
Rồi không quên nguyện cũ
Trở lại cõi Ta bà.
Tiếp tay chư Ðại Tăng
Xoay chuyển bánh xe pháp
Ðể tiếp độ chúng sanh
Chóng quay về bờ giác.
Tỳ kheo Ni Như Châu
Huê Lâm, ngày 23-03 Bính Tý
THƠ PHÚNG ÐIẾU
Kính bạch Thượng Tọa Trụ Trì Chùa Ấn Quang
Kính bạch Ban Tang Lễ cố Thượng Tọa Thích Minh Phát.
Tôi cùng toàn thể Phật tử huyện Phước Long – Sông Bé vô cùng đau xót và tiếc thương Thầy Minh Phát vừa viên tịch.
Thầy Minh Phát, một bậc Tăng tài của Giáo Hội, một Sa môn tài đức, phước trí vẹn toàn mà xả bỏ nhục thân quá sớm để Giáo Hội mất đi một thạch trụ vững vàng, Phật tử mất đi một vị Thầy từ hòa đức độ vô vàn kính yêu.
Dẫu biết rằng vô thường chi phối tất cả, nhưng cũng không thể nào ngăn được niềm xót xa thương tiếc xúc động nghẹn ngào đối với một bậc chân tu tài năng trí đức.
Tôi cùng toàn thể Tăng Ni, Phật tử huyện Phước Long xin thành kính gởi đến Thượng Tọa trụ trì, thân nhân Thầy Minh Phát, pháp quyến môn đồ của Thầy và Ban tang lễ lời chia buồn chân thành của chúng tôi.
Lẽ ra, tôi phải về lễ bái Giác linh của Thầy Minh Phát nhưng vì tuổi già sức yếu, năm nay đã 87 tuổi rồi, mắt không thấy rõ, chân bước không vững, ngồi lâu không được mà đường quá xa xôi, sức khỏe thất thường nên mong quý Thầy hoan hỷ.
Nguyện cầu Giác linh Thầy Minh Phát
Thượng Phẩm, thượng sanh cõi Lạc Bang.
Nam Mô Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật.
Sa Môn Thích Huyền Ðăng
Chùa Phước Sơn
Huyện Phước Long – Sông Bé
Cẩn ký
Kính Lạy Giác Linh Thầy
Nghe tin đến! Chúng con lòng quặn xót
Khóc âu sầu! Thầy viên tịch niềm đau.
Chúng con chùa Phật Minh tràn xúc động nghẹn ngào
Ðồng vội vã quy về tang thọ lãnh.
Kính bạch Giác linh Thầy! Chúng con sầu hiu quạnh
Con mồ côi! Sư phụ hướng Niết bàn
Trước ngày về Phật sự vẫn đảm đang
Thầy sắp xếp, trùng tu nhiều bảo điện
Ấn Quang còn đây! Tòng Lâm còn đó
Di tích bóng Thầy tô điểm chốn Phật trường
Viên Giác, Viên Dung, Phụng Sơn Tự hoằng dương
Lo công quả kết xây nền đạo pháp.
Nguyện Giác linh Thầy! Chứng tâm hầu đền đáp
Hạnh Ba la bố thí đứng hàng đầu
Nơi nào khổ nạn, mọi sự ai cầu
Tùy duyên cứu độ, nơi đâu Thầy chẳng ngại?
Mất Thầy! Chúng con mất ngọc châu! Kính bái
Bao ngôn từ không diễn tả hết nguồn cơn
Biết tìm Thầy đâu trong khóc than tủi hờn?
Thầy tuy mất vẫn còn nơi nơi tất cả.
Hạnh của Thầy thương người luôn hỷ xả
Vẫn từ tâm độ tận chúng sanh mê
Luôn dạy khuyên nhắc nhở lối đi về
Trong cuộc sống giáo đề ôi ngăn nắp
Tánh Thầy kỹ vẫn bao lời khuyên nhắc
Dạy cho con từng bước sống vào đời
Dạy cho con khắc phục khắp cùng nơi
Dạy cho con vững vàng trong nghịch cảnh
Thầy là cả rừng hương đầy dõng mãnh
Thầy về Niết bàn tịch thị vẫn an nhiên
Chúng con hình dung khuôn mặt của Thầy hiền
Luôn từ tốn dạy khuyên hàng đệ tử.
Nguyện Giác linh Thầy trọn đời làm Pháp lữ
Tri niệm ân sư lời giáo dưỡng còn đây
Nên hôm nay chúng con đọc khóc Thầy
Lời ai điếu Giác linh Thầy liễu chứng
Kính bạch Giác linh Thầy từ bi xin cảm ứng
Từ mẫn xót thương chúng con trẻ ngu khờ
Sữa pháp mất rồi! Chúng con khóc bơ vơ
Kính bạch Giác linh Thầy thượng Minh hạ Phát
Môn đồ Chùa Phật Minh kính điếu
Cảm niệm
Nam Mô A Di Ðà Phật
Ðợi vị Sư Trưởng Ân
Ngưỡng bạch Tây Thiên truyền tứ thất, Ðông Ðộ kế nhị tam Lịch Ðại Tổ Sư truyền giáo truyền giới, khai sơn tạo tự Ấn Quang Tổ đình húy Tâm Lợi thượng Thiện hạ Hòa tác đại chứng minh. Kính bạch Giác linh Bồ Tát xuất thế hành đạo Tổ đình Ấn Quang. Tân viên tịch Từ Lâm Tế Chánh Tông, tứ thập tứ thế, húy Nguyên Ðức thượng Minh hạ Phát chứng giám.
Kính bạch Giác linh! Hôm nay kim quan của Bồ Tát còn tại Hậu Tổ Ấn Quang, chúng tôi là Tu sĩ Trụ trì Chùa Dược Sư Mỹ Tho vô cùng cảm động, nhìn thấy kim quan, ngậm ngùi thương mến. Tiếc, một Bồ Tát hành đạo khả kính, với tinh thần truyền thống kế thừa sự nghiệp, với tình thương yêu của cuộc sống con người, với triết lý cao cả, là cứu khổ chúng sanh, nối mối dây kỳ diệu, nối liền Phật giáo với Dân tộc. Khi còn sanh tiền, Bồ Tát đã thực hiện Vô Ngã Vị Tha, quên mình vì người, nhận lãnh trách nhiệm một cách khách quan và bình tĩnh, nở một nụ cười khả kính, để xây dựng con người. Trên nền tảng đạo đức, góp phần quang lâm, với tình thương yêu, cảm hóa được người, là nhờ đức tính từ bi, bao dung thể hiện, để ban vui cứu khổ, với chân lý của cuộc đời, với pháp giác ngộ giải thoát của Bồ Tát, phát huy tinh thần hòa hợp chúng, với nếp sống tu hành nội tự, đại đoàn kết, trưởng dưỡng đạo tâm trang nghiêm Phật sự, hòa nhập nhịp nhàng với cuộc sống hàng ngày của Xã hội, thể hiện hòa hợp trong hàng ngũ Mặt Trận Tổ Quốc Việc Nam, Quận 10 nói riêng, với nhiệm vụ Từ Thiện Xã Hội, góp phần nghĩa vụ xây dựng thôn xóm, được hưởng niềm vui an lạc tại trần thế.
Ngày 25 tháng 3 Bính Tý
TT. Thích Bửu Nghĩa
Chùa Dược Sư – TP. Mỹ Tho
Ðiếu Văn TỔ ÐÌNH GIÁC NGUYÊN
Phúng điếu và hộ niệm trước linh cữu Thượng Tọa Thích Minh Phát
20 giờ 30 ngày 10 – 5 – 1996 (23-3 Bính Tý)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi A Di Ðà Phật.
Nam Mô Tây Thiên Ðông Ðộ Việt Nam Lịch Ðại Chư Vị Tổ Sư.
Nam Mô Ấn Quang Ðường Thượng Lịch Ðại Chư Tôn Ðức Khai Sơn Tạo Tự, Truyền Giáo, Truyền Giới Tổ Sư.
Kính bạch Chư Tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Ðại Ðức Tăng Ni môn đồ pháp quyến, Ban Tổ Chức Tang Lễ.
Chúng con, Tỳ kheo Thích Minh Nghĩa, cựu học Tăng P.H.V Hải Ðức, người thọ ân sâu dầy của Cố Hòa Thượng Viện Chủ Tổ Ðình Ấn Quang, Phó Tăng Thống GHPGVNTN. Từ bấy lâu nay dù được Phật bổ xứ phải tu hành và làm Phật sự tại trú xứ mình vẫn luôn hướng vọng về Ấn Quang làm nơi mái ấm che chở, nương tựa, hướng vọng về Chư Tôn Ðức và Huynh đệ Ấn Quang làm nơi học hỏi, giúp đỡ. Nay đây Thượng Tọa Thích Minh Phát, Phó Ban Quản Trị Tổ Ðình Ấn Quang, Phó Giám Ðốc Ðại Tòng Lâm viên tịch.
Ðứng trước linh cữu người, chúng con xin đại diện cho Tứ Chúng Tổ Ðình Giác Nguyên có đôi lời điếu văn hộ niệm.
Phụng vì:
Tân Viên Tịch Ấn Quang Ðường Thượng, Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Tứ Thế, Húy Nguyên Ðức, thượng Minh hạ Phát Thượng Tọa Giác linh.
Lành thay!
Trời Nam Việt sản sanh con đất Việt,
Chùa Ấn Quang tiếp mãi ánh Từ Quang
Hai mươi năm hành đạo dù ngắn vẫn huy hoàng,
Giờ nằm xuống, vạn triệu người thương tiếc!
Nhớ Giác linh xưa,
Dòng sữa pháp đã nuôi nấng người từ tấm bé,
Vào cửa Không, đã hạnh ngộ bậc Chân Sư.
Tháng ngày qua, hun đúc mãi lòng Từ,
Thừa kế Tổ, trải thân cùng khắp...
Các Phạm Vũ dùng lừng danh hay khuất lắp,
Ðược cơ duyên là phụng sự hộ trì.
Bắc, Trung Nam tai họa mới tường tri,
Là tức khắc người liền có mặt.
Nay đất nước trên đà phát triển,
Phật Pháp còn vững bước vươn lên,
Mà thân người không chịu nổi sức gánh gồng
Ðà tịch diệt giữa dòng đời sanh diệt,
******
Ấn Quang mưa nặng giọt sầu,
Tiễn đưa linh cữu đi vào thiên thu
Ðại Tòng Lâm bóng người đâu?
Tăng Ni thành khẩn nguyện cầu tái lai.
Nguyện sau tiếp bước tiến hoài
Ấn Quang tỏa khắp muôn loài triêm ân.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi Tiếp Dẫn Giác Linh A Di Ðà Phật.
Thích Minh Nghĩa
Tâm thành cẩn đọc.
Thư Chia Buồn
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính gởi: Thượng Tọa Thích Minh Thành – Ban Quản Trị Tổ Ðình Ấn Quang.
Nhận được tin báo cố Thượng Tọa Thích Minh Phát đã Ta Bà bảo mãn, tôi xúc động và vô cùng thương tiếc vì sự sớm ra đi về với Phật Tổ của cố Thượng Tọa, là một sự mất mát lớn lao đối với môn phái Tổ Ðình Ấn Quang nói riêng, với Giáo Hội Phật Giáo nói chung, từ đây các môn đồ sẽ mất đi một vị Thầy tốt, suốt đời đã tận tụy phụng sự đạo pháp và phổ độ chúng sinh.
Tôi đang bệnh không thể đến tận nơi để có đôi lời thành kính chia buồn cùng môn phái Tổ đình và cầu chúc cho Giác linh Thượng Tọa được siêu đăng Phật Quốc.
Ðó là một điều thiếu sót vô cùng. Rất mong Giác linh Thượng Tọa Thích Minh Phát cùng môn đồ pháp quyến Tổ Ðình Ấn Quang hoan hỷ thông cảm cho tôi.
Nay kính thơ
Viện Chủ Nam Thiên Nhất Trụ
Hòa Thượng Thích Trí Dũng
Thư Chia Buồn
Ấn Quang “Minh Phát” ra đi,
Bất ngờ viên tịch, Tăng Ni đau lòng.
Tăng tài ưu tú có công,
Lớn lao vĩ đại, trông mong đạo đời.
Trải thân chẳng xiết sáng ngời,
Cứu dân, cứu nước biển trời mênh mông.
Ra đi để lại tấm lòng,
Sáng trong như ngọc, gương lòng rạng danh.
Ngày 8 – 5 – 1996
HT. Thích Hồng Ðạo
Viện Chủ Chùa Qui Sơn, TP. Vũng Tàu.
Hồi Ký về Ðại Ðức THÍCH MINH PHÁT
Thầy Minh Phát hiện thân đặc biệt,
Ngài Thiện Hòa cho biết rõ ràng,
Tôi nghe Ngài kể vừa xong,
Thân tâm hoan hỷ một lòng kính tin.
Nay Phật sự tiền nhân giao phó,
Thầy đã làm đâu đó đàng hoàng,
Xả thân về lại Lạc Bang,
Ðến, đi rõ nét nghiêm trang đời Thầy.
Nha Trang, Long Sơn ngày 08/05/1996
Thích Ðổng Minh
Khóc Tiễn Thầy
Kính dâng Sư phụ thượng Minh hạ Phát.
Tin báo đến như đất trời tan vỡ,
Thầy giã từ đời tạm bợ để đi,
Nương oai thần cõi Cực lạc hồi quy,
Nơi trần thế mất đi Thầy mãi mãi.
Suốt cuộc đời lòng từ luôn chan rải,
Vì sinh linh không hề nghĩ đến mình,
Trời còn nhiều lũ lụt khổ chúng sinh,
Thì áo cơm Thầy còn luôn quyên gọi.
Thầy đã sống như ánh gương chiếu rọi,
Bắc, Trung, Nam dân chúng gội nhuần ân,
Hạnh tha nhân như Bồ Tát vào trần,
Nay duyên mãn Thầy thâu thần an nghỉ.
Thầy vắng bóng sơn hà như bi lụy,
Trời đổ mưa hòa lẫn lệ môn đồ,
Tiễn nhục thân đi vào cõi hư vô,
Lòng lịm chết, Thầy ơi! Ðau xót quá.
Thầy đã sống như đất trời cao cả,
Thầy ra đi muôn nghìn dạ tiếc thương,
Ðệ tử chúng con nguyện nén tình thường,
Noi gương sáng của bậc Thầy khả kính.
Phút chia ly với nén hương bịn rịn
Thành kính dâng, xin tiễn biệt Ân Sư,
Thầy đã về cõi an lạc Vô dư,
Chúng con nguyện cùng Ân Sư hội ngộ.
Tiểu đệ tử Huỳnh Thị Tuyết Mai
Chùa Dược Sư
Ai Ðiếu
Giác linh Thượng Tọa THÍCH MINH PHÁT
Nhớ Giác linh xưa – thưa Thượng Tọa!
Người mà tôi thương nhất:
Với sắc thân Tỳ kheo - Thầy – trăng giới sáng ngời, hoa thiền ngào ngạt; và
Cùng công hạnh Bồ Tát - Thầy lòng từ rộng lớn, sức đạo bao la!
Nhưng nay thì:
Huyễn thân gởi lại Ta bà,
Chân tánh đi về Tịnh độ.
Từ nay:
Còn đâu người tầm thanh cứu khổ,
Mất rồi người tùy nguyện hóa duyên!
Và rồi đây:
Ai cất thêm chùa chiền,
Ai xây thêm lớp học?
Thiện tín nhớ Thầy khôn ngăn tiếng khóc,
Tăng Ni thương Thầy khó ngậm lời than!
Tổ đình Thầy xây dựng nghiêm trang,
Giáo hội Thầy hộ trì thanh tịnh.
Than ôi và thậm chí Thầy:
Mang theo việc đạo lên giường bịnh, rồi
Bỏ lại chuyện đời xuống chiếu đau!
Thưa Giác linh Thượng Tọa! Tôi giờ này đứng trước linh đài u buồn này:
Hương trầm tay cắm mắt lau,
Hoa huệ bình dâng miệng niệm.
Nam Mô Tây Phương Giáo Chủ Tiếp Dẫn Ðạo Sư Ðại Từ Ðại Bi A Di Ðà Phật. Nguyện thùy từ tiếp độ Giác linh Tỳ kheo Thích Minh Phát vãng sanh An Lạc Quốc. (3 lần)
và đến đây tôi xin bái biệt Thầy.
PL. 2.539, ngày 25 – 03 – Bính Tý.
Thích Giải Hòa cẩn điếu
From: Ðại Ðức Thích Quảng Diệu
97 Foss Avenue Sanjose
CA 95116 USA
Tel: (408) 926 9256
To: Thượng Tọa Thích Minh Thành
243 Sư Vạn Hạnh - Quận 10
TP. Hồ Chí Minh – Việt Nam
Kính bạch Thượng Tọa,
Chúng con là Thích Quảng Diệu, Sư cô Ngộ Nguyệt, Quảng Minh, Tâm Minh, Chơn Quả, Diệu Thời, Diệu Hiền, Giác Chân, Giác Sơn, Nguyên Chỉnh và toàn thể Phật tử ở Hoa Kỳ.
Ðược tin Bổn sư của chúng con vừa viên tịch, chúng con rất đau buồn và xót dạ, đáng lẽ đích thân chúng con phải về tại Tổ Ðình Ấn Quang dập đầu quỳ lạy trước nhục thân của Thầy chúng con để đảnh lễ, nhưng vì đường sá quá xa xôi cách biệt phương trời, phương tiện đi lại khó khăn, nên chúng con không thể về được. Kính mong Thượng Tọa và Giác linh của Thầy từ bi hỷ xả tha lỗi cho chúng con, chúng con chỉ có cách tổ chức lễ thọ tang Bổn sư của chúng con tại chùa Duyên Giác ở Sanjose Cali Hoa Kỳ, để sám hối và cảm nhận công đức cao dày chỉ đường dẫn lối cho chúng con.
Chúng con đồng nhứt tâm, nhất cú, nhất kệ nguyện cầu cho Giác linh Bổn Sư chúng con được Cao Ðăng Phật quốc.
Kính mong Thượng Tọa và các huynh đệ ruột của chúng con từ bi hoan hỷ tha thứ cho chúng con, chúng con nguyện cầu mười phương chư Phật gia hộ cho Thượng Tọa và các chư huynh đệ Phát thể khang an, chúng sanh dị độ, Phật sự viên thành.
Thích Quảng Diệu
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính bạch chư Tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Ðại Ðức Tăng Ni.
Kính bạch Giác linh Ðại Ðức Tôn Sư.
Than ôi!
Rừng thiền vắng bóng hạc vàng,
Biển trần vượt khỏi muôn ngàn phong ba.
Con nhận được tin Thầy ra đi về cõi Phật vào một buổi chiều nơi xứ lạ quê người, và con đã không ngăn được những dòng lệ nóng ngậm ngùi thương tiếc. Kể từ nay con đã vĩnh viễn mất đi bậc Tôn Sư khả kính, người có ân đức chỉ lối đưa đường, vẹt cơn mây mờ, chỉ còn trăng sáng.
Lòng chạnh nhớ!
Một hôm con ngồi bên Thầy để rồi được nghe Thầy tâm sự về hoài bảo của mình; “Thành lập một viện chuyên tu, xây dựng một dịch trường lấy tên Huyền Trang, trùng tu chùa tháp và khai một Ðại Trai Ðàn trên biển”. Hỡi ôi! Phật sự chưa thành, huyễn thân tạm xả.
Con tự nghĩ:
Con đã học được nhiều điều từ thân giáo, khẩu giáo và ý giáo của Thầy. Nơi thân giáo, đó là hạnh tu chịu thay, buông xả, nhu hòa và tinh tấn. Nơi khẩu giáo, Thầy thường dạy chúng con: “Thân đâu tâm đó”, “ngoại phu phạm hạnh, nội khế chân như”. Nơi ý giáo, đó là tình thương rộng lớn đối với chúng sanh. Thầy thật đáng bậc đống lương, xứng danh Phật tử: “Ði như Phật đi, đứng như Phật đứng, nhìn như Phật nhìn, nói như Phật nói”. Con vì phước mỏng nghiệp dày nên một chút phần cũng không tương hợp với đức hạnh của Thầy, con xin đê đầu sám hối.
Than ôi!
Sữa pháp mất rồi lòng con đói mãi,
Thiền phòng vắng vẻ, trượng thất bụi mờ,
Ðất nước Như Lai, Thầy dạo chơi muôn thuở,
Vào nhà Từ Phụ, Thầy an nghỉ ngàn thu.
Ngưỡng nguyện Giác linh Tôn Sư
Chân tâm diệu trạm,
Ðâu Suất tịnh cư,
Phù trì Tổ Ấn,
Gia hộ Tông phong,
Hồi nhập Ta bà,
Vãng lai tự tại,
Trượng Phật oai quang,
Phủ thùy minh chứng.
Phụng vì Ấn Quang Ðường Thượng, Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Tứ Thế, húy Thượng Nguyên Hạ Ðức, hiệu Minh Phát, tự Thiền Quang, Bổn Sư Giác linh liên đài tọa hạ.
Ðệ tử Quảng Minh
Hoa Kỳ
Hạnh Từ
tưởng niệm Giác linh Thượng Tọa Thích Minh Phát
Bốn mươi năm lẻ giữa hồng trần,
Danh lợi như đùa áng bạch vân,
Sương nhuốm Cà sa, ngời hạnh đức,
Gót mòn công quả sắc ngờ không.
Cố đô
Quý xuân Bính Tý – PL. 2540
Ban Từ Thiện Phật Giáo Thừa Thiên - Huế đồng bái văn.
Hoài Niệm
Tu nhơn nhiều kiếp nhiều đời,
Hiện thân vào giữa cuộc đời độ sanh.
Dáng từ như đám mây lành,
Cơn mưa pháp vũ thấm nhuần khắp nơi.
Từ Bi lưu dấu muôn đời,
Ân triêm công đức, bao người nhớ ghi.
Nhớ Thầy lệ thấm bờ mi,
Ðất trời sông núi sầu bi tiễn Thầy.
Huế đô, Quảng Trị còn đây,
Quảng Bình, Nghệ Tĩnh nhớ Thầy khôn nguôi.
Thầy đi để lại bao người,
Niềm thương nỗi nhớ đầy vơi tấc lòng.
Thuyền Từ về bến thong dong,
Tâm hương một nén kính dâng lên Thầy.
Thích Nữ Như Minh
Thành kính bái biệt!
Ta Bà Vắng Bóng Cực Lạc Thêm Hoa
Tịnh Minh - Trần Văn Chi kính điếu
Thời kinh lần cuối cho Thầy,
Con nguyền theo dấu phát huy đạo mầu.
Dập đầu bái tạ ân sư,
Noi gương hoằng pháp độ sinh Ta Bà.
Thầy đi con ở lại nhà,
Pháp Thầy nối mãi nhà nhà khuyên tu.
Thầy đi giấc ngủ nghìn thu,
Gương Thầy chói sáng thiên thu để đời.
NAM MÔ A DI ÐÀ PHẬT
Ấn Quang đúc kết Thầy hiền,
Nhớ Thầy còn nhỏ gọi hiền chú Nguyên,
Bảo cầm tràng hạt triền miên,
A Di Ðà Phật, niệm liền chẳng thôi.
Lớn lên Thầy xuất gia rồi,
Tu hạnh Bồ Tát, để rồi độ sanh,
Thầy là vẻ sáng tinh anh,
Ðạo vàng tỏ sáng, độ sanh cứu đời,
Hôm nay viên tịch thẳng dời,
Môn sanh tứ chúng, bời bời yêu thương,
Nhớ Thầy nhiều nỗi vấn vương,
Thiện Hòa, Thiện Hoa con đường Thầy theo,
Ðấy là nét sáng chẳng nghèo,
Nghìn năm muôn thuở chiếc neo tu hành,
Hôm nay viên tịch trong lành,
Cầu Thầy đắc quả vãng sanh Niết Bàn.
Tỳ kheo Thích Minh Duyên
Trụ Trì Chùa An Linh - Thị Trấn Dĩ An – Sông Bé
23-03 Bính Tý
Hoài Cảm ÂN SƯ MINH PHÁT
KÍNH DÂNG GIÁC LINH CỐ TT. THƯỢNG MINH HẠ PHÁT
Minh tâm kiến tánh ngộ Như Lai,
Phát nguyện tâm bi dưới Phật đài,
Ðộ tận chúng sanh về bến giác,
Dắt dìu nhân loại đến bờ Tây.
Một chiếc y vàng soi ánh đạo,
Một bình bát trắng tỏa hương bay,
Khi đã ra đi vào cõi tịnh,
Gương người sáng mãi giữa trần ai.
Sa môn Thích Diệu Minh
Thượng Tọa MINH PHÁT
THỪA SỰ TRÍ QUANG VIÊN MÃN
Nhớ Thầy học Phật lý viên dung,
Ngồi đàn pháp tọa giữa ngôi trung,
Mật ấn Chuẩn Ðề thi diệu lực,
Hoằng khai Phật Pháp khắp trời đông.
Chăm làm Phật sự thường vô ngại,
Báo đáp ân sư giữ vẹn lòng,
Ra vào sanh tử như thanh tịnh,
Tổ ấn thiền môn sẵn chép dòng.
Trên dưới bạn bè đều thương tiếc,
Thầy đã đi về cửa Chơn Không.
Bồ Tát giới Cư sĩ Huyền Minh
Ðến và Ði
(Ngày 21 tháng 3 Bính Tý tiễn thầy Minh Phát nhập diệt)
Tiễn Thầy sang hướng Ba La Mật,
Rực rỡ hoa đăng quyện khói trầm,
Vội vã dòng người chen chúc bước,
Kinh cầu vang dội giọng trầm ngâm.
Thầy đến rồi đi gieo nỗi nhớ,
Tâm hồn con Phật chợt bơ vơ,
Còn đâu những phút giây chờ đợi,
Dáng dấp uy nghi chẳng nhạt mờ.
Cõi tạm thiên thu vắng bóng hình,
Từ bi đại giác độ sanh linh,
Kiếp nghèo cơ cực gào thương tiếc,
Ai đến chia cơm, gởi trọn tình.
Hẻm mòn ngõ hẹp Thầy in bước,
Heo hút đường dài dáng dấp thường,
Tiếng Pháp dắt người sang bến giác,
Tâm tư xóa sạch nỗi sầu vương.
Thất đại nổi chìm trong cõi tục,
Cơn đau quặn thắt... kiếp vô thường,
Ưu Ðàm nở rộ trong tâm thức,
Dũng mãnh vượt qua vạn nẻo đường.
Kẻ đón người về, kẻ tiễn đi,
Thế gian tang tóc khóc chia ly,
Thiên cung mở hội, hoa vươn cánh,
Cam lộ rưới tràn ngập lối đi
Người đến, người đi vẫn có tôi,
Ta bà xuôi ngược lắm phen rồi,
Lái thuyền đưa đón không ngơi nghỉ,
Vất vả không màng kiếp nổi trôi.
Tôi vẫn lặng yên ở phút này,
Vui buồn xen lẫn, nhớ từng giây,
Với tôi... đi... ở... đều như huyễn,
Chẳng đến, dù đi, vẫn có Thầy.
Thẩm Thúy Hằng Pd. Nhựt Phượng kính điếu
Nam Mô Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật
Kính bạch Chư Tôn Hòa Thượng, chư Thượng Tọa, hiện tiền chư Ðại Ðức Tăng, Tổ đình chùa Ấn Quang tác đại chứng minh.
Chúng con môn nhơn pháp quyến cùng toàn thể hiếu đồ chư Ðại Ðức Ni + giới tử đồng quỳ dâng lời tác bạch. (Lạy một lạy quỳ lên)
Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ Tát Ma Ha Tát.
Kính bạch Giác linh Thầy!
Ðệ tử chúng con đồng đê đầu đảnh lễ
Ðau đớn nhiều! Chung cuộc buổi tử ly
Thế là hết! Ai bi! Sầu não ruột
Hoa Ưu Ðàm rơi rụng!
Bầu trời tối ngả nghiêng
Thế gian đành trống rỗng
Tịch diệt vẫn an nhiên
Than ôi!
Ðặng thân người là khó
Gặp Phật Pháp khó hơn
Xuất thế chí không sờn
Thánh đạo hằng hóa độ
Nguyện tâm luôn kham khổ
Nhẫn nhục cảnh Ta Bà
Liên trì hải hội nở hoa
Về Tây phương cảnh sen tòa Như Lai
Trí huệ ngộ tâm khai
Bạch Giác linh Thầy!
Chín đài thượng phẩm
Giữa trần thế Ta bà đầy ấm lạnh
Còn ai đâu? Nhắc nhở lối đi về
Lòng đệ tử tái tê!!!
Vượt phiền não sông mê sang bề giác
Trời mưa sầu man mác
Chư Thiên chuyển lệ tâm
Đệ tử chúng con ! còn khờ dại mê lầm
Vô minh còn đội ! từ nay ai dẫn lối
Kính bạch Thầy ! chúng con đồng sám hối
Lỡ lầm chi ! khi phật ý của Thầy
Lời dạy khuyên còn mãi buổi hôm đây
Ấn Quang Tự! còn đâu? Thầy khả kính
Viên Giác tự ? đau buồn ? sầu bịn rịn
Chúng con mồ côi vĩnh viễn kể từ đây
Đệ tử giới Ni quỳ bộc bạch khóc Thầy
Xả ngũ trược thâu thần Thầy viên tịch
Than ôi ! trời tang giăng mù mịt
Bốn mươi mốt năm trụ thế cõi ta bà
Dấu chân Thầy in tựu thiện tâm hoa
21 Hạ lạp hương thiền gương hỷ xả
Tứ đại dầu tan rã
Định luật kiếp vô thường
Thầy ơi ! kể từ đây chúng con biết tựa nương
Dòng sữa pháp còn đâu?
Dọn tư lương về Tịnh Độ
Chúng con quỳ đây tuôn dòng lệ đổ
Còn chỉ vài hôm là vĩnh viễn xa rồi
Kính bạch Giác Linh Thầy ! Thấm nhuần tâm cảm ứng
Kiến thiết trùng tu những di tích của Tổ Thầy
Hoà Thượng Thiện Hoà để lại mọi dựng xây
Trường Phật học Tăng Ni thừa nghiệp phật
Khai nguồn nhớ cội
Tổ Ấn trùng quang
Phật sư đảm đang
Thượng hoằng hạ hoá
Pháp mầu ca cả
Thế trí biện thông
Vô học tâm không
Hoa khai kiến phật.
Nam mô Ấn Quang Đường thượng tứ thập tứ thế, Hiệu Nguyên Đức,Thượng Toạ thượng Minh hạ Phát chi Giác linh tân viên tịch
Nam mô Sanh tịnh độ Bồ tát ma ha tát.
Văn cảm niệm Cố Thượng Toạ Minh Phát
Phó ban Quản Trị Tổ đình Ấn Quang
Kính bạch Giác linh Thượng Toạ.
Thưa toàn thể hiếu đồ và pháp quyến.
Hôm nay chúng tôi thay mặt Chư Tăng Ni và phật tử chùa Giác Tâm – Phú Nhuận và Tu viện Bảo An – Gò vấp, Tổ đình Bảo An - Cần thơ đến trước linh đài để bày tỏ tấm lòng kính mộ và thắp nén tâm hương, đọc lời cảm niệm để tiễn đưa giác linh cố Thượng Toạ Phó ban Quản Trị Tổ đình Ấn Quang về nơi an dưỡng.
Thưa Quý vi.
Quan niệm về vấn đề sống chết giữa đạo và đời có nhiều điểm dị biệt. thông thường với người đời thì sống là vui mừng và ham thích còn chết là buồn khổ và lo sợ, dĩ nhiên không ai ham muốn cái chết, ngoại trừ những người lìa bỏ cuộc sống để đổi lấy một lý tưởng hay nguyện vọng nào đó thì họ mới xem thường cái chết mà thôi. Về đạo thì ngược lại, mà nhất là với đạo Phật lại càng thản nhiên với cái chết vì sống chết là lẽ thường tình, hơn nữa : “Sinh tử nhàn nhi dĩ!”
Tuy vậy, khi hay tin cố Thượng Toạ thâu thần viên tịch, chúng tôi hết sức mến tiêc. Tiếc là vì một bậc đống lương của chốn nhà Thiền lại không duy trì thọ mạng thêm một thời gian nữa để phụng sự Phật pháp, truyền hành đạo mạch, giáo hoá chúng sanh, biết làm sao hơn vì: “Chư hành vô thường!”
Trở lại với quan điểm đạo pháp mặc dù có nhìn nhận sinh tử sự đại : “ Sống chết là vấn đề rất quan trọng nhưng cũng không quan trọng, đối với người xuất gia”. Sống là ngộ duyên tắc thí mà chết là duyên tán tắc tịnh. kẻ ngộ đạo không chán sanh tử mà cũng không ham Niết bàn (niết bàn sinh tử thị không hoa). Vì vậy không tham cầu sự sống mà cũng không đòi hỏi cái chết. Và mục đích chính là giải thoát khỏi vòng sống chết mà thôi.
Kính bạch Giác linh Thượng Toạ!
Từ vô thỉ đến nay, ắt đã từng cùng nhau đi đi về về, kẻ đi người về, kẻ về người đi. Nhà nơi đâu?cửa nơi đâu? Quê hương xứ sở nơi đâu? Và không là đâu cả? Thế thì có gì gọi là đi, có gì gọi là về. Chẳng qua nhìn đốm không hoa giữa bầu kiền khôn huyễn hoá, xem bóng sắc trần trong cõi pháp giới ảo huyền.
Nhưng bạch Giác Linh Thượng Toạ!
Đây chưa phải là điều chúng tôi muốn thưa với Thượng Toạ. Điểm mà chúng tôi muốn được tâm sự cùng Thượng Toạ là: Chúng tôi ở nơi đây, Thượng Toạ ở chốn ấy tai có còn nghe, mắt có còn thấy lẫn nhau hay không? Hay là tánh thuấn nhã đã tan mất với pháp ngã giai không, tâm thước ca la đã vào Thủ Lăng Nghiêm đại định. Rồi mặc dù trần hoàn rộn rịp chiếc gương trong vẫn sáng bạch không vướng vấp một nhỏ bụi lân hư –Pháp giới sum la vầng hồng nhật mãi đầy tròn chẳng hoen ố một đốm màu tối sáng.
Cao cao sơn thượng bất ngại bạch vân phi
Thâm thâm hải trung nhậm tuỳ lưu thuỷ khứ.
Văn thinh kiến sắc bổn thị tầm thường. Nghe làm chi, thấy làm chi, vô thỉ đến nay vẫn như vậy. Như vậy trót đã dứt đường ngôn ngữ hết nẻo tâm hành, đến mức thủy cùng sơn tận thì “thủy tại ba tâm - nguyệt tại thiên!”.
Kính chúc Thượng Toạ: Thường- lạc – ngã- tịnh
Nam mô Siêu thập địa Bồ tát ma ha tát.
Bảo An Tổ đình - Cần Thơ
Bảo An tu viện – Gò vấp
Tỳ kheo Thích Minh Thanh


TT. Thích Giác Toàn
***
Ngày 22 – 03 – Bính Tý
Nam Mô A Di Ðà Phật.
Uế trược Ta bà đã dứt
Ðài sen Phật quốc nở hoa
Dù từ đây bếp đạo bóng trăng tà
Nhưng sự nghiệp đạo pháp
Cuộc đời của Minh Sư Thích Minh Phát
Là một chân dung vĩnh cửu.
Thích Từ Phước
***
Kính dâng Giác linh thượng Minh hạ Phát
Sen hồng rực rỡ ngát hương thơm
Thi ân Thầy Tổ dẫn đưa đường
Gắng tu, ân đức mong đền đáp
Nghĩa tựa non Tu, biển tình thương!...
Ðệ tử Thích Quảng Ðịnh
Kính bái
***
Ngày 22/03/ Bính Tý
Kính Viếng Thầy
Sen vàng nơi tận cõi Tây phong
Ðón bước chân Thầy nhập Lạc bang
Công viên quả mãn, nên lui gót
Ðạo nghiệp tựu thành, phải tiếp sang
Con ở Ta bà lòng luyến tiếc
Sư về an dưỡng dạ hân hoan
Thề nguyện độ sanh quay trở lại
Dắt dìu trăm họ, vãng Tây phong...
Tăng sinh khóa Bồi dưỡng Giảng sư
Khóa 1 Thiện Hoa
ÐÐ. Thích Thiện Hòa
Trụ Trì chùa Vạn Linh – Cái Bè - Tiền Giang
****
Chùa Bàng Long - Thủ đô Vientiane- Laos
Chùa Phật Tích – Luang Phrabang – Laos
Khóc Thầy!
Nghe tin đến! Chúng con đồng đau xót
Thầy trở về chứng ngộ cảnh Niết bàn
Chúng con quỳ đây trong tiếng lệ khóc than
Thành tâm đảnh lễ Ân sư đã truyền giới
Năm 1992 Thầy từ bi lên tới
Ðất Viên Chăn trao y bát thọ Tỳ kheo
Ngày hôm nay Thầy viên tịch! Sữa pháp đã cùng theo
Chúng con đói khát! Âm từ ân giáo huấn.
Nam Mô Siêu Lạc Ðộ Bồ Tát Ma Ha Tát.
Chúng con đồng bi kính.
Thích Nữ Ðàm Ngọc
Thích Nữ Ðàm Quy
Thích Nữ Ðàm Thanh
Thích Nữ Ðàm Chất

***
Ngày 24/03/Bính Tý
Kính dâng Tôn Sư
Kinh cát Tòng lâm cỏ mọc sầu
Ta bà cõi tạm đã an thâu
Trở về tịch diệt nơi hằng hữu
Rừng thiền vắng bóng bậc Tôn Sư
Mẫu người mô phạm đâu tìm nữa
Lớp lớp, người người kính tiếc thương
Quỳ trước án tiền đồng cầu nguyện
Giác linh Thầy sớm tỏa Liên đài
Trời ảm đạm Ấn Quang vĩnh biệt.
Chúng con đồng kính.
Thích Nhuận Bình
Thích Quảng Ngôn
Thích Giác Phương

Hồi ức về cuộc đời của Thầy Minh Phát
Điệu Nguyên
Các Tăng Ni, phật tử thường gọi là chú Nguyên vì chú tên Lê Nhựt Nguyên, quy y với Bổn sư thượng Thiện hạ Hòa và Ngài cho Pháp danh là Thích Minh Phát, pháp hiệu Nguyên Đức. Nhà của Ðiệu Nguyên ở xóm vườn Lài, gần đầu ngõ trước chùa Ấn Quang. Cả gia quyến đều tin kính Tam Bảo, thường tới chùa lễ Phật nghe pháp.
Kể từ khi mới chào đời, năm 1956, Ðiệu Nguyên đã có hảo tướng của đức Di Lặc Bồ tát (ưa thỉnh tượng Di Lặc chứa đầy tủ) lại trên mỏ ác đã có ba quần vết cũ của ba liều thuở trước còn lưu dấu ấn. Do đó trong gia đình ai cho ăn đồ huyết nhục thì Ðiệu Nguyên đều phun phèo phèo. Lúc lên hai, ba tuổi thì Ðiệu Nguyên đòi mẹ dắt dẫn qua chùa Ấn Quang để lễ phật nghe kinh. Mỗi lần gặp gỡ với dáng vẻ tròn trịa trong trắng thật dễ thương, chúng tăng đều hoan hỷ theo nụ cười tươi tắn của Ðiệu và thay phiên nhau bồng ẵm nựng nịu; tôi (Thích Minh Thành) là người hun nựng nhiều nhất. Vì thuở nhỏ miệng Ðiệu Nguyên lúc nào cũng thơm tho nên tôi ưa nựng đến đỗi Ðiệu Nguyên phải gỡ tay tôi ra mà chạy ùa vào vòng tay của mẹ. Tôi chẳng chịu thua, liền lên phòng Bổn sư lấy trái cây xuống cho Ðiệu để dụ khị hầu dễ bề thân cận.
Lần lần theo năm tháng lớn lên đến năm sáu tuổi, Ðiệu Nguyên tự mình qua chùa Ấn Quang để gần gũi Tam bảo. Tôi là người thị giả đang hầu Ngài viện chủ nên Ðiệu thường lẩm đẫm theo tôi để dễ ra vào bái kiến Tôn sư. Sau vài lần Tôn sư xoa đầu dạy bảo…điệu Nguyên giao cảm được tình Thầy trò một cách thấm thiết như đã từng liên hệ tự thuở xa xưa rồi; nên bèn thỏ thẻ: “xin Thầy ban cho con một pháp danh để con được quy y và tu học theo Thầy”. Ngài Viện chủ liền mỉm cười nói ngay rằng: “con tên Nguyên nghĩa là nguồn gốc của đạo đức, vậy Thầy cho con pháp danh là Minh Phát, nghĩa là nguồn gốc đạo đức kể từ đây được con làm phát triển huy hoàng xán lạn”. Thế là Ðiệu mừng rỡ bái lĩnh và tươi cười khúc khích mãi, trông cho tới ngày Phật đản 1960 để được chánh thức dự lễ định kỳ truyền trao quy giới.
Sau buổi lễ ấy rồi thì Ðiệu Nguyên càng thường xuyên hơn nữa tới chùa phụ tôi quạt hầu Bổn sư vào buổi sáng và trưa lúc Ngài thọ trai. Mỗi khi Ban hộ niệm Ấn Quang đi dự lễ cầu an, cầu siêu nơi nào mà Ðiệu Nguyên hay biết được liền bén gót theo sau trong chiếc áo tràng đủng đỉnh thật dễ thương. Nếu ai mắc bịnh dây dưa mà có lời than cầu giúp đỡ thì Ðiệu Nguyên liền tự nhiên lấy nước cúng phật, một tay bưng chung nước, một tay bắt ấn cam lồ để trước ngực, miệng khấn nguyện lâm râm, rồi đưa bịnh nhân và bảo “Cứ niệm Phật, uống vào là khỏi”. Hằng ngày ngoài việc phụ tôi hầu Tôn sư, theo chúng tụng Niệm, kinh hành, Ðiệu Nguyên còn hăng hái tham gia cùng chư Tăng và phật tử cổ động đi cứu trợ đồng bào bị hoả hoạn, thiên tai…từ thuở lên bảy tuổi mà đã có lòng từ bi như thế.
Năm lên tám tuổi, Ðiệu Nguyên vốn đã thân cận với Thầy tri sự Thích Huệ Thới trong việc nhà trù và tụng niệm tại chùa; lại thường theo ban Hộ niệm Ấn Quang do đạo hữu Minh Đức làm trưởng ban và thường ủng hộ Ban Từ thiện Ấn Quang do bà Diệu Nhẫn làm trưởng ban; nhất là Ðiệu thường thân cận với tôi trong việc hầu hạ Bổn sư. Nên một hôm nhân người nhà bỏ cá thịt giấu trong đáy chén dưới lớp cơm trắng phủ đầy để ép thử xem sao? Ðiệu Nguyên vừa bưng chén cơm lên, biết ngay là có mùi thịt cá, bèn làm bộ giận rồi dứt khoát rời khỏi nhà sang ở luôn bên Chùa Ấn Quang. Mỗi ngày Ðiệu Nguyên ăn mâm hầu Thầy với tôi hoặc ăn với các vị hành đường. Còn mỗi tối Ðiệu Nguyên ng trong góc phòng của Bổn sư, hoặc trong phòng của tôi hoặc trong phòng của Thầy Huệ Thới, lắm lúc Ðiều nằm chèo queo trên sân thượng. Thật là đơn giản, dễ ăn dễ ngủ và dễ thương làm sao ấy. Mỗi nửa tháng tới kỳ cạo tóc của chúng Tăng thì Ðiệu Nguyên cũng xin được cạo theo, lắm lúc mượn dao bào tự cạo lấy. Thế là coi như Ðiệu Nguyên đã tự xuất gia chớ không làm lễ thế độ hay lễ nhập tự nhập chúng gì cả như các tu sĩ khác.
Năm ấy gặp mùa pháp nạn 1963, Ðiệu Nguyên cũng tình nguyện tuyệt thực theo quý vị Tôn túc chỗ này chỗ nọ rồi đi thăm các bậc lãnh đạo phong trào chống chế độ Ngô Đình Diệm. Lợi dụng tấm thân còn bé bỏng, chánh quyền không lưu tâm, Ðiệu Nguyên nhận nhiệm vụ thông tin cho quý Ngài thượng cấp của Giáo hội. Sau khi ĐT. Dương Văn Minh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm xong thì Ðiệu Nguyên trở về chùa Ấn Quang xông pha nơi nhà trù trông coi mấy bà nấu ăn. Lắm lúc Điệu vận quần ống cao ống thấp với chiếc khăn vắt vai, vén tay áo gọn gàng, dáng đi ỏng ẹo như một Ni cô gọt món này nấu dâng Bổn sư, chế biến món nọ cúng dường Đại chúng, làm món nào cũng nhanh lẹ khéo léo ai ăn cũng đều khen ngon. Thế là Ðiệu Nguyên đã được sự tín nhiệm của Đại chúng Ấn Quang. Kể từ đó tự dần dần trở thành vị Tri khố của Tổ đình. Về Kinh kệ không thấy học, chỉ siêng tụng niệm theo đại chúng mà mỗi ngày một thuộc nhiều, việc từ thiện mỗi ngày một tích cực, việc hộ niệm mỗi ngày được mở rộng theo năm tháng lên dần.
Thấy thế Bổn sư cho Ðiệu Nguyên đến trường Bồ đề - Chợ lớn để học văn hoá tới hết lớp ba tiểu học. Đến năm 1966, một hôm vì bận lo nấu đám chung thất của Phật tử Ấn Quang nên Ðiệu đi học trễ giờ bị cô giáo quở trách. Nhân đó Ðiệu Nguyên nói “ Tôi cảm ơn cô giáo đã tận tâm dạy dỗ nhưng xét cho cùng thì học già đời cũng chết. Vậy từ nay xin chào cô giáo, tôi không học nữa” rồi thay cho những giờ đi học đó, Ðiệu mướn các truyện Tàu đọc ngấu nghiến đọc hết bộ nào đều nhớ vanh vách bộ ấy. Thấy TV chiếu tuồng nào là Ðiệu biết ngay nó ở bộ nào, vào thời đại nào của Trung quốc. Không bao lâu thì việc bỏ học này của điệu được báo cáo lên Bổn sư. Ngài kêu hỏi lý do thì Ðiệu cũng bạch đáp như trên. Kế đến năm 1967 Bổn sư lại gởi gấm cho Ðiệu theo học chữ Hán với cụ đồ Minh Khởi ở Phú Nhuận, người phát tâm sao chép bộ Đại Luật và in ra hàng trăm bộ cho Tổ đình làm tài liệu để Tăng Ni chuyên học luật. Điệu Nguyên theo học chữ Nho được vài tuần rồi cũng trốn học, bị Bổn sư rầy nên vì sợ Thầy buồn, Điệu ráng đi học thêm vài ba lần nữa rồi cũng tự xin nghỉ học luôn. Sở học văn hóa của Ðiệu Nguyên chỉ tới lớp ba mà mỗi khi có dịp liền xuất khẩu thành thi. Đôi khi quay bên này đọc cho thư ký viết một bài, quay bên kia đọc cho thư ký khác viết một bài khác, bài nào cũng lưu loát cả tình đời lẫn ý đạo. Còn chữ Nho học chưa hết 214 bộ, vậy mà bản chữ Hán nào hay, những câu liễn, kệ nào có người đọc cho nghe qua một lần, sau này vị đọc đó nếu quên thì Ðiệu Nguyên nhắc liền cho. Chẳng những như thế mà có ai xin liễn hoặc kệ văn chữ Hán, Ðiệu Nguyên sẵn sàng ứng khẩu đọc cho viết ngay, đầy những yếu lý nhiệm mầu của Đại thừa Phật giáo.
Đến năm 1971, Tu viện Quảng Đức ở cạnh làng Đại học Thủ đức mở giới đàn, thỉnh Hoà thượng Thích Trí Thủ làm đàn đầu, Bổn Sư liền viết thư gởi Ðiệu Nguyên lên thọ giới Sa di khi xong trở về lễ tạ Bổn sư, Minh Phát được Ngài cho thêm pháp hiệu là Nguyên Đức, ngụ ý rằng từ nay muôn đức đều tu. Năm sau Ngài Viện Chủ Tu Viện Quảng Đức lại mở lớp Sơ cấp Phật học, được thông báo đến Ấn Quang, Bổn sư bảo Thầy Minh Hạnh dẫn đưa hai hiền đệ là Minh Phát và Minh Lương lên gởi gấm cho nhập học. Được tiếp nhận học nội trú, độ hơn một tháng hai vị lại bỏ học trốn về chùa Ấn Quang.
Dần dà đến năm 1975, chùa Pháp Giới ở gần Cầu Tre quận 11 có mở giới đàn, thỉnh Hoà thượng Thích Hành Trụ làm Đàn đầu, Minh Phát đã đến tuổi hai mươi nên Hoà Thượng Bổn sư chấp thuận cho đi thọ đại giới Tỳ kheo và Bồ tát. Chính nơi đây, Thầy Minh Phát đã nổi danh khắp các tỉnh thành bởi hai bài “Tác bạch cầu thọ đại giới” và “Tác bạch tạ Sư” do Thầy Minh Phát ứng khẩu bái trình. Các giới Sư đều hết lời khen ngợi: “Thật là một người thông minh xuất chúng”.
Quả thật danh bất hư truyền, Thầy Trí Quang, Thầy Hộ Giác….kể cho nghe sự tích gì hay đọc các bộ truyện Tàu, hoặc đọc các truyện tiền thân Phật hoặc nghe qua các bài pháp ngữ nào lọt vào tai rồi thì Ðiệu Nguyên không bao giờ quên, trí như tờ giấy trắng in thứ gì vào là lưu lộ rõ ràng. Từ ngày thọ Đại giới về sau cho đến ngày viên tịch, không có việc khó nào mà Thầy Minh Phát không làm được. Dù có đám đột xuất lớn lao đến đâu của Tổ đình hay của Giáo hội mà được giao phần trai soạn, thì Thầy Minh Phát đều nhất hô bá ứng, cụ biện rất nhanh, phục vụ đầy đủ và ngon lành. Từ nhỏ tới lớn hễ bịnh nhân nào tới bái cầu cứu độ thì đều được bình phục, trừ bịnh nào mà Thầy Minh Phát lắc đầu và tìm cách tránh né thì là vô phương cứu chữa. Nhất là việc thiện xã hội khắp cả nước đều được Thầy Minh Phát chủ động cứu trợ, kết quả thật tài tình thần diệu. Mỗi năm chùa nào có mở trường học khắp cả nước đều được Thầy Minh Phát tổ chức đi cúng dường để hổ trợ cho Tăng Ni tu học. thường trực hàng tuần Thầy Minh Phát đều ủng hộ thực phẩm cho Tăng Ni khu vực Đại Tòng Lâm. Nơi nào có chùa chiền trùng tu hoặc xây dựng thiếu tài chánh thì Thầy Minh Phát đều tùy hỷ trợ cấp ít nhiều cho chóng thành tựu. Đặc biệt đối với các môn đồ đệ tử trong các giới xuất gia, tại gia hoặc nghệ sĩ, Thầy Minh Phát đều ban tặng mỗi vị nhiều bài thơ, bài kệ để khuyến tấn hành giả.
Tóm lại, Điệu Nguyên – Thích Minh Phát suốt đời đã tận tuỵ thực hiện hạnh nguyện từ bi, vô ngã vị tha của một bậc Bồ tát tái sanh. Nguyện cầu Bồ tát Thích Minh Phát sẽ tái hiện Đàm hoa để tiếp tục giáo hóa cõi ta bà đau khổ và phổ độ chúng sanh thời mạt pháp bi thương này.
Pháp huynh Thích Minh Thành.